Xem mẫu
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU
CHO CÁC ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
n Lưu Đức Thanh
Cục Sở hữu trí tuệ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Đặc sản của địa phương
Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất
Q
uá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các
Việt Nam ngày càng diễn ra mạnh
mẽ kể cả về chiều sâu và chiều rộng. nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau
Trong quá trình đó, hoạt động sản xuất và kinh để nói tới các đặc sản bản địa: sản phẩm địa
doanh các đặc sản địa phương đã thu được nhiều phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn
thành quả to lớn, góp phần nâng cao thu nhập gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa
cho đồng bào khu vực có đặc sản. Nổi bật trong phương (local product, regional products), đặc
sản (specialty)…
Theo nhóm công tác của Ủy ban nông thôn
số các đặc sản là các sản phẩm: cà phê, gạo,
Québec (Solidarité rural du Québec)(*), thì sản
chè, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, thuỷ sản... và các
phẩm địa phương (produit de terroir) là sản phẩm
sản phẩm làng nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh
(hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được
Việt Nam đã và đang ký kết các Hiệp định
sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định, đồng
Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối
nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng
tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP),
kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên
Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu
những đặc trưng riêng của vùng sản xuất. Các đặc
Âu (EVFTA)... thì các biện pháp trợ cấp, bảo
hộ mang tính chất khuyến nông, khuyến công của trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới
Nhà nước sẽ dần bị hạn chế, sản phẩm, bao gồm vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay
cả các đặc sản của Việt Nam sẽ không còn lợi những tập quán sản xuất truyền thống và kiến
thế về giá, do đó sẽ bị cạnh tranh gay gắt và thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai
đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị
trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc
quyết liệt không chỉ tại các thị trường xuất khẩu
sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (differ-
mà còn ngay cả ở thị trường nội địa. Vì vậy,
ence), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au
chúng ta cần xây dựng chiến lược nâng cao khả
terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du
năng cạnh tranh cho nông, lâm, thủy sản, các
savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản
sản phẩm làng nghề và các chính sách hỗ trợ.
xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để
Một trong những hướng ưu tiên để nâng cao sức
thương mại sản phẩm ra thị trường.
cạnh tranh cho nông, lâm thủy sản, các sản phẩm
Trên thực tế, các sản phẩm có liên hệ (ít, nhiều) tới
làng nghề của Việt Nam là xây dựng, đăng ký và
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cho các loại địa danh vùng sản xuất thường được gọi là sản hoặc
sản phẩm này. truyền thống (terroir, d’origine hoặc tradionnel).
SỐ 4/2018
Tạp chí
[5]
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- Sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ hiện hình ảnh, dần qua thời gian được tạo dựng rõ
(Produit d’origine): là các sản phẩm có lợi ràng trong tâm trí khách hàng nhằm thiết lập một chỗ
thế về mặt tự nhiên, văn hóa địa phương và đứng tại đó”.
sở hữu đặc tính riêng nhưng không nhất thiết Có thể tạm chia ra mấy đối tượng được gọi là
là sản phẩm được sản xuất theo phương thức thương hiệu như: Nhãn hiệu (ví dụ: Trung Nguyên,
sản xuất truyền thống, cổ truyền. Vinamilk...), Chỉ dẫn địa lý (ví dụ: Vinh, Phú Quốc,
- Sản phẩm truyền thống (Produit Buôn Ma Thuột...), Tên thương mại (ví dụ: Công ty
tradtionnel): là kết quả của thực hành sản Cà phê Trung Nguyên, Công ty cà phê Đức Lập...).
xuất truyền thống, nhưng nguyên vật liệu Việc đăng ký bảo hộ các đối tượng này được quy định
ban đầu để sản xuất/chế biến có thể đến từ trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có hiệu lực từ ngày
các nơi khác. 01/07/2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Theo De Kop, Sautier và Gerz (2006), Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực từ ngày 01/01/2010
đặc sản là các sản phẩm chỉ có thể sản xuất cùng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
trong một khu vực địa lý nhất định mà tại đó 2.1. Bảo hộ nhãn hiệu
thực hành sản xuất của con người cộng với Bảo hộ nhãn hiệu là hình thức phổ biến đối với mọi
yếu tố về văn hóa, trải qua thời gian dài, đã mặt hàng lưu hành trên thị trường. Chức năng của
góp phần tạo ra những đặc tính sinh học nhãn hiệu là dùng để phân biệt hàng hóa/ dịch vụ cùng
riêng có cho sản phẩm. Do tính đặc thù về loại của chủ thể này và chủ thể khác. Nhãn hiệu có thể
địa lý, danh tiếng và chất lượng, đặc sản bao gồm nhãn hiệu thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn
thường có giá trị gia tăng lớn hơn so với sản hiệu chứng nhận.
phẩm thông thường cùng loại. Giá trị này - Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân
thuộc về cộng đồng sản xuất sản phẩm trong biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ
nhiều năm, thậm chí qua nhiều thế hệ phát chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch
triển thành đặc sản mang lại lợi ích lâu dài, vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của
bền vững cho cộng đồng địa phương. tổ chức đó.
Tóm lại, có thể định nghĩa đặc sản như - Nhãn hiệu chứng nhận: là nhãn hiệu mà chủ sở
sau: “Đặc sản là sản phẩm có nguồn gốc từ hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng
một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể, trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
có những tính chất đặc thù về hình thái, chất chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật
lượng không giống các sản phẩm cùng loại liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ,
khác và các đặc tính này chủ yếu có được do chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính
các điều kiện tự nhiên, con người vùng sản khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
xuất, chế biến sản phẩm tạo ra”. Nói một 2.2. Bảo hộ tên thương mại
cách đơn giản hơn, đặc sản là sản phẩm được Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân
sản xuất hay khai thác ở một vùng nhất định dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể
theo một quy trình, tập quán khai thác, sản kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
xuất nhất định, có những đặc tính, đặc điểm, khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
đặc trưng mà nơi khác không có được. 2.3. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý
2. Thương hiệu cho đặc sản địa phương Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có
Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay
luật nào về SHTT quy định về “thương quốc gia cụ thể. Điều kiện chung đối với chỉ dẫn địa lý
hiệu”, tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng được bảo hộ: i) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn
nhiều trong thương mại và nó có thể được gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc
hiểu rằng “Thương hiệu là tổng hợp tất cả nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; ii) Sản phẩm mang
các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý lẽ và cảm chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính
xúc của một sản phẩm, hoặc một dòng sản chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương,
phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm, tên gọi, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý
biểu tượng (Logo), “hình ảnh” và mọi sự thể đó quyết định (Điều 79, Luật SHTT, 2005).
[6]
Tạp chí
SỐ 4/2018
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Việc bảo hộ tên gọi (nhãn hiệu, chỉ dẫn Một số thương hiệu đặc sản của địa phương:
địa lý) cho đặc sản và/hoặc các dịch vụ
truyền thống cũng như tên của chủ thể (tên
thương mại) sản xuất/kinh doanh đặc sản
và/hoặc các dịch vụ truyền thống là hết sức
cần thiết. Việc trang bị tên gọi cho đặc sản
và dịch vụ truyền thống không chỉ đơn thuần
là đăng ký bảo hộ mà còn phải được bảo vệ,
chăm sóc, bồi dưỡng lâu dài nhằm nâng cao
uy tín, ảnh hưởng của sản phẩm/dịch vụ
mang tên gọi đó cũng như uy tín của chủ thể
tạo ra chúng. Cũng cần lưu ý là, nếu ở thị
trường nội địa, mỗi doanh nghiệp có một
hoặc nhiều nhãn hiệu cho một sản phẩm/dịch
vụ thì khi xuất khẩu có thể nhiều doanh
nghiệp phải hợp sức lại dưới một nhãn hiệu Vải thiều Thanh Hà
chung (nhãn hiệu tập thể). Điều này là cần
thiết, nhất là cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong giai đoạn mới thâm nhập thị
trường. Ở giai đoạn mới phát triển thị
trường, một doanh nghiệp nhỏ đơn độc với
một nhãn hiệu của riêng mình sẽ gặp khó
khăn về chi phí cũng như khả năng tiến hành
thủ tục đăng ký và theo dõi hành vi xâm
phạm của các đối thủ. Vì vậy, nhiều doanh
nghiệp với một nhãn hiệu tập thể sẽ khắc
phục được các khó khăn đó, đồng thời nâng
cao được sức cạnh tranh cho sản phẩm của
mình. Sau khi đã thiết lập được vị thế cho
nhãn hiệu tập thể đó, mỗi doanh nghiệp sẽ
phát triển nhãn hiệu riêng của mình cùng với
và dưới ô nhãn hiệu tập thể nói trên. Do đó, Cà phê Buôn Ma Thuột
nhãn hiệu tập thể là hình thức đặc biệt phù
hợp để bảo vệ và phát triển nông, lâm, thủy
sản và các sản phẩm làng nghề của nước ta.
Một hình thức đặc biệt khác để bảo vệ các
đặc sản của chúng ta là bảo hộ chỉ dẫn địa lý
(trước đây, theo Bộ Luật Dân sự năm 1995,
đối tượng này được gọi là tên gọi xuất xứ).
Bằng hình thức bảo hộ này, nhiều nhà sản
xuất/kinh doanh một loại đặc sản trong một
khu vực địa lý xác định có thể cùng nhau xin
phép Nhà nước đăng ký một chỉ dẫn địa lý
để cùng sử dụng chung nhằm bảo vệ uy tín
của đặc sản qua việc đảm bảo chất lượng đặc
thù và nguồn gốc của đặc sản. Tương tự như
đối với nhãn hiệu tập thể, sau khi đã thiết lập Thanh long Bình Thuận
SỐ 4/2018
Tạp chí
[7]
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
được vị thế của chỉ dẫn địa lý đó, mỗi doanh 1. Đối tượng đăng ký
nghiệp sẽ phát triển nhãn hiệu riêng của Vị trí địa lý đặc biệt đã mang đến cho Việt Nam
mình cùng với và dưới ô chỉ dẫn địa lý. nền khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa và điều kiện tự
Ngoài hai hình thức đặc biệt nêu trên, nhiên rất đa dạng, phân hóa giữa các vùng miền trên
chúng ta cũng có thể sử dụng hình thức nhãn khắp đất nước. Việt Nam lại là một nước có nền văn
hiệu chứng nhận để bảo vệ các đặc sản. Ở minh nông nghiệp lâu đời, với tổ chức cộng đồng cơ
hình thức này, một cơ quan Nhà nước hoặc bản là xóm làng, do vậy các sản phẩm nông, lâm, thủy
doanh nghiệp, có chức năng chứng nhận là sản và làng nghề của chúng ta đặc biệt phong phú.
chủ một nhãn hiệu chứng nhận, cho phép có Xuất phát từ những đặc điểm trên mà chúng ta nhận
điều kiện các doanh nghiệp khác sử dụng thấy rằng ở Việt Nam có một hệ thống các sản vật rất
nhãn hiệu chứng nhận trong hoạt động sản đa dạng và phong phú, mỗi một địa phương trên khắp
xuất kinh doanh một hoặc nhiều sản đất nước Việt Nam đều có những sản phẩm mang đặc
phẩm/dịch vụ. Cũng giống như hai hình thức trưng của quê hương, vùng miền của mình. Người dân
bảo hộ trên đây, mỗi doanh nghiệp sử dụng Việt Nam thường lấy tên chính quê hương mình gắn
nhãn hiệu chứng nhận này có thể phát triển liền với những sản phẩm, những đặc sản của địa
nhãn hiệu riêng của mình cùng với và dưới ô phương vừa như một nét đặc thù để chỉ nguồn gốc
nhãn hiệu chứng nhận. xuất xứ của sản phẩm, vừa để thể hiện lòng tự hào về
3. Lợi ích của bảo hộ thương hiệu cho vùng quê mình. Đi đến bất kỳ đâu trên đất nước Việt
đặc sản địa phương Nam, ta cũng có thể bắt gặp những tên gọi như vậy. Sản
- Lợi ích của người sản xuất: Có được lợi phẩm nông nghiệp, chăn nuôi của Việt Nam rất đa dạng
thế cạnh tranh trên thị trường; Giúp nhà sản như lương thực, thực phẩm; động vật, thực vật, hoa,
xuất duy trì được lượng khách hàng truyền quả, cây thuốc, cây công nghiệp…
thống, thu hút khách hàng tiềm năng; Giúp Trong mỗi loại sản phẩm này đều có loại có danh
tăng doanh số và lợi nhuận; Giúp nhà sản tiếng gắn liền với địa danh như: cam Vinh; gạo Hải
xuất đưa sản phẩm thâm nhập thị trường Hậu, Điện Biên; Một bụi đỏ Hồng Dân; khoai Lệ Bồ;
thuận lợi và mở rộng thị trường xuất khẩu; nước mắm Vạn Phần, Phú Quốc, Phan Thiết; quế Trà
Giúp nhà sản xuất chống lại các hành vi cạnh My; hoa Đà Lạt; hoa đào Nhật Tân; hồng ngâm Bắc
tranh không lành mạnh (đối với các hành vi Kạn; vải thiều Thanh Hà, Lục Ngạn; nhãn lồng Hưng
chỉ dẫn sai lệch nguồn gốc của sản phẩm). Yên; xoài cát Hoài Lộc; xoài Yên Châu; thanh long
- Lợi ích của cộng đồng: Phát triển nông Bình Thuận; mía Kim Tân; dừa Bến Tre; hoa hồi Lạng
nghiệp nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Phát Sơn; sâm Ngọc Linh (núi Ngọc Linh); cà phê Buôn
triển các ngành nghề truyền thống và các Ma Thuột, Đức Lập, Khe Sanh; chè Thái Nguyên,
dịch vụ khác, đặc biệt là du lịch vùng; Tạo Mộc Châu, Blao; thuốc lào Vĩnh Bảo, Tiên Lãng; ca
công ăn việc làm cho người dân, hạn chế di cao Bình Phước; điều Bình Phước, Đắk Lắc; tiêu
dân, giúp phát triển đều giữa các vùng kinh Quảng Trị, Chư Sê, Phú Quốc...
tế, ổn định kinh tế vùng; Góp phần gìn giữ Các sản phẩm gắn với địa danh là những tài sản có
các giá trị văn hóa, truyền thống. giá trị, được xem như những thương hiệu mang tính
- Lợi ích của người tiêu dùng: Được chỉ cộng đồng. Đồng thời, các sản phẩm này mang tính
dẫn bởi các dấu hiệu về khu vực địa lý được địa phương: được nhận diện và xác nhận khái niệm
gắn trên sản phẩm; Yên tâm sử dụng các sản “địa phương” thông qua thị trường. Đây chính là minh
phẩm có nguồn gốc thực từ khu vực địa lý chứng cho việc các sản phẩm này mang đến giá trị
với chất lượng được kiểm soát; Tránh các rủi tiềm năng dài hạn không chỉ về mặt kinh tế mà còn ở
ro từ việc sử dụng hàng hóa giả mạo, kém cả mặt xã hội. Yếu tố xã hội ở đây nằm ở khía cạnh sự
chất lượng. công nhận các phong tục tập quán, làm tăng các giá
II. HIỆN TRẠNG ĐĂNG KÝ BẢO trị truyền thống, điều này giúp khơi nguồn sự gắn bó
HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ, NHÃN giữa người dân địa phương với lịch sử và truyền thống
HIỆU CHỨNG NHẬN VÀ CHỈ DẪN vùng miền.
ĐỊA LÝ CỦA VIỆT NAM Do đó, đối tượng đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn
[8]
Tạp chí
SỐ 4/2018
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho các nữ, Công ty TNHH, Làng nghề, Câu lạc bộ, Trạm
đặc sản chủ yếu là địa danh (dấu hiệu chỉ Khuyến nông, Trung tâm nghiên cứu….
nguồn gốc địa lý của sản phẩm), hay nói - Phần lớn các nhãn hiệu tập thể đều chưa thể hiện
cách khác là hiện nay chúng ta sử dụng chủ được chất lượng của sản phẩm/dịch vụ và khu vực địa
yếu địa danh để đăng ký nhãn hiệu tập thể, lý tương ứng với địa danh (trong quy chế sử dụng
nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho nhãn hiệu tập thể).
các đặc sản. Việc đăng ký, bảo vệ và phát Đây cũng trở thành khó khăn trong hoạt động quản
triển các địa danh gắn liền với sản phẩm lý, phát triển của các nhãn hiệu tập thể, đặc biệt là vai
không chỉ là trách nhiệm, quyền lợi của trò và khả năng phát triển các nhãn hiệu tập thể của
người dân trong mỗi khu vực mà còn là trách các chủ sở hữu. Với đặc điểm về sản xuất, đặc điểm
nhiệm của mỗi chúng ta. hoạt động của các tổ chức chính trị như: hội nông dân,
2. Quản lý Nhà nước đối với địa danh hội làm vườn, hội phụ nữ... hay năng lực hoạt động
Theo quy định tại Điều 4.22, Điều 11 của các Hợp tác xã, hiệp hội/hội sản xuất kinh doanh...
Luật SHTT năm 2005 và Điều 3 Nghị định đã tạo ra nhiều khó khăn trong quản lý và khai thác
số 103/2006/NĐ-CP, quản lý Nhà nước đối nhãn hiệu tập thể. Sự phát triển của các nhãn hiệu tập
với các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý thể phải được gắn liền với việc sử dụng các dấu hiệu
(địa danh) được quy định như sau: “địa danh” trên sản phẩm, cung cấp các sản phẩm đảm
- Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện
xác lập quyền cho các dấu hiệu chỉ dẫn
nguồn gốc địa lý dùng cho các đặc sản địa
phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương quản lý các dấu hiệu chỉ
nguồn gốc địa lý tại địa phương.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa - Thể
thao - Du lịch hỗ trợ Ủy ban nhân dân
tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trong
việc quản lý các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa
lý tại địa phương dùng cho các đặc sản địa
phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống
liên quan đến lĩnh vực mà mỗi Bộ quản lý.
3. Hiện trạng đăng ký nhãn hiệu tập
thể/nhãn hiệu chứng nhận
Tính đến ngày 01/4/2016, Cục SHTT đã
cấp giấy chứng nhận cho 722 nhãn hiệu tập
thể và nhãn hiệu chứng nhận, trong đó 609
nhãn hiệu tâp thể, 113 nhãn hiệu chứng nhận.
Trên cơ sở thẩm định các đơn đăng ký
nhãn hiệu tập/nhãn hiệu chứng nhận, có thể
rút ra một số nhận xét sau đây:
Đối với nhãn hiệu tập thể
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu tập thể rất đa dạng, bao gồm: tổ hợp tác,
cơ sở sản xuất, Hợp tác xã nông nghiệp, Hợp
tác xã sản xuất sản xuất, Liên hiệp hợp tác
xã, Hội/Hiệp hội sản xuất/kinh doanh, Hội
Nông dân, Hội làm vườn, Hội Liên hiệp phụ Nhãn hiệu tập thể Hương trầm Quỳ Châu
SỐ 4/2018
Tạp chí
[9]
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
bảo chất lượng, danh tiếng đến người tiêu cơ quan Nhà nước (UBND tỉnh/huyện, Sở Khoa học
dùng. Điều đó phụ thuộc vào việc hình thành và Công nghệ, Trung tâm Khuyến nông, Khuyến
các chuỗi giá trị, kênh phân phối... và đây công…);
cũng là điểm yếu của các chủ sở hữu nhãn - Các hồ sơ đơn đều thực hiện đúng quy định pháp
hiệu tập thể hiện nay. luật, đặc biệt là Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng
Cùng với đó, việc chất lượng sản nhận bao gồm đầy đủ các nội dung theo quy định pháp
phẩm/dịch vụ chưa được xác định rõ ràng đã luật.
gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động quản Mặc dù các địa phương đã xây dựng các bộ hồ sơ
lý. Cụ thể như nhãn hiệu tập thể Hương trầm đăng ký nhãn hiệu chứng nhận tương đối hoàn chỉnh,
Quỳ Châu, việc xác định đâu là sản phẩm song do thời gian thực hiện còn tương đối ngắn nên
đặc thù mang nhãn hiệu tập thể Quỳ Châu chưa thể đánh giá được hiệu lực và hiệu quả của các
trong bối cảnh yêu cầu của thị trường khó nhãn hiệu chứng nhận này. Tuy nhiên, theo ghi nhận
phát triển được hương sạch hay quy trình sản mới đây của Cục SHTT, một số nhãn hiệu chứng nhận
xuất sản phẩm khác biệt, đa dạng đã dẫn đến đã thu được hiệu quả mong muốn như: “Hoa Đà Lạt”,
những khó khăn trong hoạt động quản lý của “Rau an toàn Mộc Châu”, nước mắm Cát Hải...
Hợp tác xã và địa phương. 4. Hiện trạng đăng ký chỉ dẫn địa lý
Ngoài ra, đối tượng địa danh dùng cho Tính đến 30/5/2016, Cục SHTT đã cấp 47 Giấy
các sản phẩm nông nghiệp, các đặc sản chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý (trong đó có 4 chỉ
thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản dẫn địa lý của nước ngoài). Trên cơ sở thẩm định các
lý nhằm đảm bảo việc cấp quyền sử dụng đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý nêu trên và trong quá trình
công bằng và khách quan. Một trong những sử dụng các chỉ dẫn địa lý trên thực tế, có thể rút ra
hình thức thực hiện điều này hiệu quả nhất một số nhận xét sau đây:
là thành lập hoặc hỗ trợ thành lập Tổ chức - Chủ thể đăng ký (người nộp đơn): chủ thể đăng
chung (Hội, Hiệp hội, tổ chức đa ngành, hợp ký chỉ dẫn địa lý của các chỉ dẫn địa lý chủ yếu là Ủy
tác xã…) đại diện cho quyền và quyền lợi ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được ủy quyền như:
của những người sản suất/kinh doanh/người Sở khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân
cung cấp dịch vụ truyền thống. Những người huyện/thành phố trực thuộc tỉnh hoặc Hiệp hội, Hội
này thống nhất thông qua một quy chế sử (được UBND tỉnh cho phép) như: Hội sản xuất nước
dụng địa danh làm nhãn hiệu tập thể (Quy mắm Phú Quốc, Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu, Hiệp
chế sử dụng nhãn hiệu tập thể), xin phép hội thanh long Bình Thuận.
UBND tỉnh được sử dụng địa danh này và - Chủ thể quản lý: Tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý
nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể. Tuy được ghi nhận chủ yếu là Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc
nhiên, mặc dù những chủ thể đăng ký rất ý cơ quan được ủy quyền (Sở khoa học và Công nghệ,
thức được việc phải đăng ký nhãn hiệu tập Ủy ban nhân dân huyện/thành phố trực thuộc tỉnh) và
thể, nhưng họ lúng túng trong việc xin phép một Hiệp hội (Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu). Trong
sử dụng địa danh và xây dựng cơ chế chung số 43 chỉ dẫn địa lý đã có 35 chỉ dẫn địa lý có các quy
(Quy chế) để quản lý và sử dụng nhãn hiệu chế quản lý, theo đó chủ thể quản lý là Sở Khoa học
tập thể. Hơn nữa, chưa có gì đảm bảo là phần và Công nghệ chiếm tỷ trọng chính trong các mô hình
lớn các chủ thể đăng ký được liệt kê trên đây quản lý chỉ dẫn địa lý của Việt Nam với 63% (tương
đều là các tổ chức đại diện cho quyền và đương 22 chỉ dẫn địa lý), 34% là do UBND huyện là
quyền lợi của những người sản suất/kinh chủ thể quản lý, chỉ có 1 chỉ dẫn địa lý có chủ thể quản
doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống lý là Hội.
trong khu vực địa lý đồng thời còn có thể làm Như vậy, thực tế hiện nay là nhà nước đóng vai trò
giảm uy tín/danh tiếng của sản phẩm/dịch vụ là chủ thể quản lý chỉ dẫn địa lý, quản lý chỉ dẫn địa
do không có cơ chế chung để kiểm soát chất lý trở thành một đối tượng trong quản lý nhà nước ở
lượng sản phẩm. địa phương, trở thành chức năng, nhiệm vụ của các
Đối với nhãn hiệu chứng nhận: đơn vị đang thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
- Tất cả các chủ nhãn hiệu chứng nhận là Có thể thấy là các chỉ dẫn địa lý đều được đặt dưới sự
[10]
Tạp chí
SỐ 4/2018
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quản lý trực tiếp của Nhà nước (Ủy ban nhân định về biểu tượng chung (ví dụ biểu tượng chỉ dẫn
dân tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy địa lý quốc gia) cho đặc sản.
ban nhân dân Huyện). Sở dĩ có hiện trạng + Việt Nam hiện nay không có quy định pháp luật
này là do nhiều nguyên nhân chủ quan và ở mức độ quốc gia (Luật, Nghị định, Thông tư...) cụ
khách quan nhưng chủ yếu nhất vẫn là chưa thể về kiểm soát chỉ dẫn địa lý, nghĩa là pháp luật hiện
có Tổ chức đại diện chung cho quyền và nay chưa quy định là chỉ dẫn địa lý được kiểm soát
quyền lợi của các nhà sản xuất/kinh doanh như thế nào, kiểm soát gì và ai kiểm soát. Thực tế hiện
trong khu vực địa lý, đồng thời tổ chức đó nay, mỗi chỉ dẫn địa lý sẽ có một quy chế kiểm soát
phải có đủ năng lực để đảm nhận đầy đủ các chỉ dẫn địa lý riêng, quy định cụ thể về tổ chức bộ
hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý. máy, quy trình và cách thức tổ chức kiểm soát. Việc
Theo kết quả ghi nhận của Cục SHTT, xây dựng quy định về Tổ chức chứng nhận với nhiệm
hiện nay đa số các chỉ dẫn địa lý đã thành vụ kiểm soát và chứng nhận chất lượng, nguồn gốc
lập hội/hiệp hội. Tuy nhiên, phần lớn các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý là cần thiết. Tổ chức
Hiệp hội này vẫn còn lúng túng trong việc này hoàn toàn độc lập với tổ chức tập thể của các nhà
quản lý chỉ dẫn địa lý, họ chỉ đóng vai trò sản xuất/ kinh doanh, vì thế còn được gọi là tổ chức
phối hợp chứ chưa thực sự là chủ thể trong thứ ba. Tổ chức chứng nhận đóng vai trò quan trọng
quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý. trong việc thực hiện các hoạt động nhằm kiểm tra chất
Do tại các khu vực địa lý, các nhà sản lượng và nguồn gốc của sản phẩm, đảm bảo tính
xuất/kinh doanh chưa thể tập trung được khách quan, trung thực trong việc tuân thủ các quy
nguồn lực để bảo vệ, quản lý và phát triển định. Nếu như việc xác lập quyền cho các sản phẩm
chỉ dẫn địa lý của mình. Nên Ủy ban nhân mang chỉ dẫn địa lý đảm bảo cho quyền sử dụng địa
dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương danh như một dấu hiệu đặc biệt chỉ dẫn nguồn gốc cho
(thông qua Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy sản phẩm của cộng đồng những người sản xuất ở địa
ban nhân dân huyện…) phải đứng ra yêu cầu phương thì việc thiết lập các tổ chức chứng nhận lại
xác lập quyền cho chỉ dẫn địa lý (lập hồ sơ được coi là một khâu thiết yếu để đảm bảo rằng sản
và đăng ký) và sau đó cũng đứng ra quản lý phẩm được cung ứng ra thị trường xứng đáng với chất
chỉ dẫn địa lý, và đương nhiên là Nhà nước lượng và danh tiếng mà nó đã được công nhận.
phải bỏ ra một chi phí rất lớn. Thực tế hiện + Cần có các quy định về biểu tượng chung nhằm
nay cho thấy, các địa phương mới chỉ hoàn xây dựng hình ảnh của các khu vực và/hoặc của quốc
thành việc xác lập quyền, trong khi cơ chế gia thông qua đặc sản của các khu vực đó và sản phẩm
và các thao tác quản lý chưa được thiết lập nông nghiệp chủ đạo của quốc gia (như: thủy sản, lúa
hoặc nếu có thì cũng chưa hoạt động hiệu gạo, cà phê, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, chè...). Một
quả. Điều này dẫn đến hiệu lực và hiệu quả doanh nghiệp muốn cho sản phẩm của họ được mang
của Văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý chưa biểu tượng chung, thì cần phải đảm bảo các tiêu chí
được như mong muốn. về chất lượng và nguồn gốc (được quy định trong quy
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT chế sử dụng biểu tượng) và phải được một tổ chức
TRIỂN THƯƠNG HIỆU CHO ĐẶC chứng nhận chứng nhận là đã tuân thủ các quy định
SẢN ĐỊA PHƯƠNG trong quy chế.
Xuất phát từ các phân tích trên đây, và từ - Cần có chính sách tổng thể của Nhà nước hỗ trợ
thực tiễn, có thể đề xuất một số biện pháp thành lập các tổ chức tập thể có đủ năng lực để quản
nhằm phát triển thương hiệu cho nông sản lý, đăng ký và bảo vệ và phát triển một nhãn hiệu
Việt Nam như sau: chung (nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
1. Ở cấp Trung ương chứng nhận). Chính sách tổng thể như vậy ít nhất cần
- Hoàn thiện khung pháp lý cho việc đăng phải bao gồm các vấn đề sau: quy hoạch, tài chính, hỗ
ký quyền SHTT cho địa danh sử dụng cho trợ pháp lý, kỹ thuật, đào tạo nhân lực, môi trường,
đặc sản/dịch vụ truyền thống. Hiện nay, pháp thông tin, quảng bá sản phẩm, sự phối hợp của các cơ
luật về SHTT của chúng ta còn thiếu quy quan có thẩm quyền…
định về kiểm soát chỉ dẫn địa lý và các quy - Cần đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền SHTT nói
SỐ 4/2018
Tạp chí
[11]
KH-CN Nghệ An
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
chung và đặc biệt là cho đặc sản (phối hợp
với các địa phương và trên phạm vi toàn
quốc). Nếu công tác bảo vệ quyền đối với
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận
được thực hiện quyết liệt và có hiệu quả, các
nhà sản xuất/ kinh doanh đặc sản có thể yên
tâm đầu tư, sản suất/kinh doanh, quyết định
giá bán sản phẩm phù hợp mà không còn e
ngại về hàng giả, hàng kém chất lượng và
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
thể làm giảm uy tín của sản phẩm của họ hay
làm lũng đoạn thị trường.
2. Ở cấp địa phương
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực Hội chợ Cam Vinh - Nghệ An (12/2017)
thuộc Trung ương quyết định thành lập và
hỗ trợ thành lập tổ chức tập thể, đồng thời lược/kế hoạch từng bước xây dựng thương hiệu cho
cho phép tổ chức này đăng ký và quản lý chỉ các đặc sản của mình.
dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu Để thành lập được Hiệp hội các nhà sản xuất,
chứng nhận. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng trước hết cần phải tuyên truyền để người dân, các nhà
có thể chỉ định một cơ quan cấp dưới (Ủy sản, kinh doanh xuất ý thức được vai trò của việc bảo
ban nhân dân huyện/xã) hoặc một cơ quan vệ tài sản trí tuệ liên quan đến sản phẩm của mình và
chuyên môn (Sở Khoa học và Công nghệ, Sở ý thức được lợi ích của việc thành lập, tham gia Hiệp
Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển hội các nhà sản xuất. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh
Nông thôn) của mình đăng ký và quản lý chỉ có thể tạo lập cho mình các nhãn hiệu riêng đồng thời
dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận. tham gia vào các Hiệp hội sản xuất để tận dụng nhiều
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực lợi thế đưa lại từ cộng đồng. Để các Hiệp hội này
thuộc Trung ương thông qua các cơ quan thành lập và hoạt động hiệu quả, trước hết cần đến
chuyên môn của mình kiểm tra, giám sát hoạt tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các nhà sản xuất sau
động của tổ chức tập thể nhằm đảm bảo quyền đó mới cần đến chiến lược phát triển đúng đắn của
và lợi ích của các thành viên thuộc tổ chức. Hiệp hội.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực Sau khi đã thành công trong việc thành lập các
thuộc Trung ương thông qua các cơ quan Hiệp hội, các địa phương cần phải cân nhắc để lựa
chuyên môn của mình hoặc thành lập tổ chọn hình thức xác lập quyền cho sản phẩm mang tên
chức riêng để kiểm soát chất lượng và nguồn địa danh của địa phương mình. Nếu sản phẩm đã có
gốc sản phẩm do các thành viên của tổ chức danh tiếng trên thị trường và có các tính chất, chất
tập thể sản xuất. lượng đặc thù được quyết định bởi điều kiện địa lý,
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực địa phương có thể bảo hộ địa danh theo hình thức bảo
thuộc Trung ương xây dựng các chính sách hộ chỉ dẫn địa lý. Đối với các sản phẩm không đáp
hỗ trợ sản xuất, quảng bá sản phẩm và bảo ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ theo hình thức chỉ dẫn
vệ quyền SHTT đối với các đặc sản thuộc địa lý, có thể lựa chọn hình thức bảo hộ nhãn hiệu tập
địa phương. thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận.
3. Đối với các nhà sản xuất/kinh doanh Tùy theo từng hình thức đăng ký, tổ chức tập thể
Để bảo vệ chất lượng và danh tiếng cho cần phải xây dựng quy chế sử dụng đối tượng này,
các đặc sản của mình, các nhà sản xuất/kinh đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và kiểm soát chất
doanh tại địa phương nên cùng tập hợp nhau lượng sản phẩm phù hợp./.
lại trong một tổ chức tập thể (ví dụ một Hiệp (*)
Báo cáo Thương mại các sản phẩm đặc sản vùng, miền (La
hội) để tập trung sức mạnh, thống nhất chiến mise en marche des produits de terroir: defies et strategie)
[12]
Tạp chí
SỐ 4/2018
KH-CN Nghệ An
nguon tai.lieu . vn