Xem mẫu

  1. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học ỨNG DỤNG MÔ HÌNH BIKE-SHARING TẠI PHỐ ĐI BỘ BÙI VIỆN Vũ Hoàng Việt*, Vũ Thị Hương Trang Trường Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh *Tác giả liên lạc: hoangviet.vu.kts@gmail.com TÓM TẮT Bùi Viện, với không khí cuộc sống phố phường phương Đông nhộn nhịp xen lẫn văn hóa ẩm thực đa dạng mà ở các nước châu Âu – Mỹ không có, đã thu hút được lượng lớn khách du khách với khả năng tài chính cao khu này vui chơi. Điều đó cho thấy việc phát triển giao thông công công giúp tăng sự hấp dẫn cho Bùi Viện. Tuy nhiên, hiện trạng hiện nay hệ thống xe buýt thiếu sức hấp dẫn, BRT chưa thể phát triển ở khu vực này, xe điện cũng như đường sắt thành phố thì xa vời, và trong tương lai TP. Hồ Chí Minh sẽ áp dụng đề án về việc dừng hoạt động xe máy trên địa bàn các quận nội thành vào năm 2030 nhằm kiểm sóa t xe cá nhân, giải quyết các vấn đề giao thông hiện tại như ùn tắc kéo dài, thiếu bãi gửi xe, đặc biệt giảm lượng khí thải của phương tiện cá nhân. Chính vì vậy, nghiên cứu áp dụng mô hình Bike-sharing cho tuyến phố Bùi Viện là hết sức cần thiết, tạo tiền đề cho áp dụng rộng rãi sau này. Từ khóa: Xe đạp chia sẻ, phương tiện công cộng, Bùi Viện. APPLICATIONS OF BIKE SHARING SYSTEMS AT BUI VIEN STREET Vu Hoang Viet*, Vu Thi Huong Trang University of Architecture Ho Chi Minh City *Corresponding Author: hoangviet.vu.kts@gmail.com ABSTRACT The dynamic atmosphere at Bui Vien street is really attracts visitors, people come here to feel the rhythm of Eastern as well as enjoy the range of cuisines here. There has been an increase in the number of visitors whilst the public transportation is still not developed, therefore, applying bike sharing systems- with the design connects closely with the image of Saigon - can serious impact enviromental and economic benefits at Bui Vien street. This research is based on the premise to applying widely the bike sharing systems for Ho Chi Minh City as well as Vietnam. Keywords: Bike-sharing, public transport, Bui Vien. TỔNG QUAN Các chương trình bike-sharing đầu tiên Bike- sharing là một chương trình vận bắt đầu vào những năm 1960 ở Châu chuyển sáng tạo, lý tưởng cho các Âu, nhưng khái niệm này đã không chuyến di chuyển ngắn, nó cung cấp diễn ra trên toàn thế giới cho đến giữa cho người dùng có thể sử dụng xe đạp những năm 2000. Hệ thống bike ở bất kì trạm xe tự phục vụ nào đó và sharing có một số đặc điểm và tính hoàn trả lại ở bất cứ trạm nào khá, miễn năng xác định, bao gồm: xe đạm và là hai trạm nằm chung một hệ thống. trạm, hệ thống thanh tóa n, lệ phí, phí Bike- sharing thường được kết hợp với sử dụng mỗi giờ. các hình thức vận tải công cộng khác. Thời gian hoạt động của Phố Bùi Viện 619
  2. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học (vận động cấm xe máy đi lại) từ 19h chức hệ thống trạm xe đạp công cộng đến 2h sáng hôm sau. Thông qua khảo lớn. Điều này cho thấy tổ chức không sát nhu cầu di chuyển của người dân, gian trên vỉa hè cần phải lựa chọn có thể thấy rằng việc xây dựng hệ những giải pháp tiết kiệm không gian, thống xe đạp chia sẻ ở khu vực này là tích hợp nhiều tiện ích và lựa chọn thời hoàn toàn có cơ sở vì nó giải quyết nhu gian hoạt động hiệu quả cho mô hình cầu di chuyển của người dân cũng như bike-sharing để không gây cản trở các khách du lịch, trong đó nhóm đối hoạt động đi bộ, không gian buôn bán tượng khách du lich có tiềm năng sử trên vỉa hè. dụng xe đạp lớn nhất. Về đánh giá hoạt động trên tuyến phố: đối với buổi sáng, khung giờ khảo sát PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU của tác giả từ 8 giờ đến 12 giờ. Tại Dựa trên phương pháp quan sát theo khung giờ này, khách du lịch lưu trú dõi: khảo sát, phân tích đánh giá hiện chủ yếu xuống đường tham quan và di trạng và yếu tố tác động xung quanh chuyển đến các địa điểm du lịch khác khu vực để đưa ra lựa chọn vị trí và trong thành phố. Đối với buổi chiều, phương án thiết kế tối ưu. Thông qua khung giờ từ 15 giờ đến 19 giờ là phương pháp này, sau khi thực hiện khung giờ khách du lịch và người dân khảo sát lượng khách tham quan phố đi đa số đi ra đường để giải trí, ăn uống. bộ, tác giả rút ra được kết quả 72% du Thông qua đó các kết quả khảo sác khách đến phố đi bộ bằng xe máy, 7% trên, tác giả lựa chọn khung thời gian taxi, 15% đi bộ và 6% sử dụng các áp dụng mô hình từ 6 giờ đến 19 giờ. phương tiện công cộng. Cùng với việc áp dụng mô hình để Dựa trên phương pháp phân tích, thống phục vụ du lịch là chủ yếu nên khi áp kê, phân loại, so sánh: thống kê số liệu dụng vào phố Bùi Viện, mô hình cần thực tế về nhu cầu, lưu lượng đối với được biến đổi để phù hợp với mục đích phương tiện xe công cộng. Nghiên cứu sử dụng. Do đó mô hình cần có các yếu dựa trên cơ sở thực tiễn (Case study) tố sau đây: các mô hình bike-sharing đã áp dụng Có thiết kế đẹp, sinh động, mang hình thành công ở nước ngoài. Từ đó so ảnh đặc trưng Sài Gòn xưa-thời hoàng sánh những điều kiện tương đồng, kim của một đô thị xe đạp. nghiên cứu chọn lọc, liệt kê dựa trên Dễ dàng tiếp cận và dễ dàng sử dụng các nguyên tắc thiết kế trong và ngoài bằng cách sử dụng các công nghệ tự nước. động, hình thức quản lý tiên tiến. Dựa trên phương pháp nghiên cứu đề Mô hình khi áp dụng vào tuyến phố xuất tổng hợp: tổng hợp những vấn đề Bùi Viện cần nhỏ gọn, tiết kiệm không đã nghiên cứu, sơ phác và hình thành gian và tích hợp nhiều tiện ích. các giải pháp thiết kế dựa trên định Đề xuất mô hình bike-sharing phục hướng; từ đó đề xuất được mô hình. vụ du lịch trên tuyến phố Bùi Viện Dựa vào kết quả thu thập, phương pháp KẾT QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT MÔ phân tích tổng kết kinh nghiệm cũng HÌNH NGHIÊN CỨU như các phương pháp nghiên cứu lý Kết quả khảo sát hiện trạng tại trục thuyết, tác giả đã đưa ra cơ sở lý thuyết đường hiện hữu trong mô hình bike-sharing như sau: Đối với chất lượng giao thông tại tuyến Mật độ trạm: Một hệ thống chất lượng phố: với một vỉa hè rộng khoảng 3.5m cần 10-16 trạm cho mỗi kilomet không có nhiều thuận lợi cho việc tổ vuông, cung cấp không không gian 620
  3. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học trung bình xấp xỉ 300m giữa các trạm không gian có sẵn, cảnh quan của khu và một khoảng cách đi bộ lý tưởng tới vực và tác động tới thị giác của người các điểm. dân. Việc lựa chọn loại trạm cần phải Chất lượng xe đạp: xe đạp trông hệ tính đến các thiết bị công nghệ cho thống cần có độ bền cao, hấp dẫn và mỗi loại. Trạm bao gồm xe đạp, tiện lợi (với giỏ xe phía trước để đựng khung sắt đặt xe, ki-ốt. Đế khóa là túi xách, hàng hóa). nơi xe đạp đỗ và khóa xe khi không Xe đạp: cần phải xác định chiều cao sử dụng và ở một số hệ thống, người trung bình của người dùng và tạo ra đề dùng có thể thuê xe ngày tại các xuất dựa trên số liệu đó. Xe đạp trong khung sắt này. Các trạm có thể gắn hệ thống được sử dụng với tần suất cao các bảng quảng cáo và là một dịch vụ hơn nhiều so với xe đạp thông thường đem lại lợi nhuận cho hệ thống Bike- nên cần có một kết cấu chắc chắn. Sharing. Trạm xe: chọn các vị trí tốt để đặt trạm Khu vực đỗ xe đạp: Xe đạp được cất xe để đảm bảo cho hệ thống mang lại giữ tại khu vực an toàn, trên các giá đỡ. khả năng phục vụ và lợi nhuận cao. Khu vực đậu xe này là lựa chọn tốt đối Các trạm cần được đặt tại những nơi có với các trạm lớn hơn (khoảng 50 thể nhận biết dễ dàng và tiện lợi cho chiếc). Tại các trạm đỗ xe đạp, xe đạp người sử dụng. Mật độ phân bố trạm được kiểm tra ra vào thống qua cửa với khoảng cách trung bình giữa các hoặc thủ công. Bởi vì các trạm này đỏi trạm khoảng 300m, giúp khả năng hỏi an toàn bằng rào chắn hoặc tường phục vụ tốt hơn. Trạm cần đặt liền kề rào, nên có thể ảnh hưởng đến cảnh với các trạm dừng và bến phương tiện quan khu vực. công cộng, nhờ vậy mà bike-sharing có Tạo lập mô hình bike-sharing thể giúp hành khách kết nối nhanh Mẫu xe đạp: sự xuất hiện của chiếc xe chóng và dễ dàng tới điểm họ cần đến. đạp là yếu tố quan trọng trong tạo dựng Các trạm nên đặt gần các góc phố, giúp thương hiệu tổng thể của mô hình bike- người sử dụng có thể tiếp cận và đổ ra sharing và chiếc xe đạp nên có một nhiều hướng khác nhau. Để xác đinh kiểu dáng đẹp, hình ảnh sinh động. kích thước trạm, cần nắm được số Thiết kế có thể phân biệt đội xe đạp lượng xe đạp và số khung sắt cần lắp ở chia sẻ từ xe đạp thường xuyên trong trạm. Các số lượng này dựa trên nhu thành phố thông qua các màu sắc đặc cầu của khu vực, có thể xác định bởi biệt, kiểu khung, khuôn, và đồ họa. Tác các phương pháp khác nhau. giả đề xuất mẫu xe đạp có kiểu dáng Dạng trạm và thiết kế: thiết kế trạm cổ, mô phỏng mẫu xe đã xuất hiện ở cần dựa vào mức độ nhu cầu. lượng Sài Gòn những năm 70. Hình 1. Mẫu xe đạp 621
  4. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học Trạm xe đạp: các thành phần của trạm thùng rác, bồn cây, được đặt tại các xe đạp bao gồm: trụ khóa xe và biển điểm lấy và trả xe trên tuyến phố Bùi báo và bảng chỉ dẫn và một số thành Viện. Mô hình đề xuất đưa vào hình phần kết hợp còn có mái che, thanh ảnh xích lô một biểu tượng đẹp với du tựa, chiếu sáng, rào chắn, chỗ ngồi. lịch thành phố, gợi lên hình ảnh của sài Tác giả đề xuất 2 loại trạm xe đạp bao gòn xưa (Hình 2). gồm: Trạm khóa xe: chỉ bao gồm trụ khóa Trạm giữ xe: bao gồm khung để và đế xe và biển báo và bảng chỉ dẫn, được khóa xe; cột biển báo và bảng chỉ dẫn, đặt tại các điểm du lịch đề xuất trong ki-ốt phục vụ thanh tóa n; mái che kết lộ trình du lịch phục vụ cho việc khóa hợp chỗ ngồi và có các tiện ích nhỏ như giữ xe khi tham quan du lịch (Hình 3). Hình 2. Mẫu trạm xe đạp Hình 3. Mẫu trạm khóa xe Vị trí đặt trạm giữ xe và khóa xe: hướng tại phố Bùi Viện. Vị trí đặt trạm những nơi cần trạm giữ xe đạp là các khóa xe gồm các trạm ngay các điểm khu lưu trú du lịch như khách sạn, du lịch trong trung tâm thành phố. Tác homestay; điểm dịch vụ du lịch như giả đã đề ra tuyến đường an toàn cho điểm đổi tiền cửa hàng tiện lợi, cây xe đạp, gợi ý cho khách du lịch sử dụng ATM; những ngã tư, ngã giao cần định mô hình bike-sharing (Hình 4). 622
  5. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học Hình 4. Vị trí đặt trạm giữ xe trên tuyến phố Bùi Viện và vị trí đặt trạm khóa xe tại các điểm du lịch Cách bố trí trạm: không gian tại khu thiết kế trụ khóa xe đạp, mỗi chiếc xe vực nghiên cứu là một con phố nhỏ đạp sẽ cần một không gian dài khoảng hẹp, lộ giới 14m lòng đường 8m, vỉa hè 1,6-2,0m và rộng 0,5-1,0m và cần 3m và không gian vỉa hè dành cho các thêm không gian là 1.2m để lấy xe đạp hoạt động buôn bán, nhà hàng, quán ăn 1 cách dễ dàng. Trạm xe đạp phải bố và việc đi bộ. Các không gian cần thiết trí quay góc xiên với lối đi bộ nhằm cho mỗi trạm sẽ phụ thuộc vào cách đặt giảm thiểu việc cản trở giao thông đi xe đạp ở trạm đó. Phụ thuộc vào các bộ (Hình 5). 623
  6. Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học Hình 5. Cách bố trí trạm xe KẾT LUẬN nghiên cứu đi sau, cụ thể là các tuyến Những nghiên cứu của nhóm đã cố đường khác trên địa bàn Thành phố Hồ gắng đi đến chi tiết giải pháp cụ thể Chí Minh. việc áp dụng mô hình bike-sharing, Với giải pháp được nêu trên của nhóm, đáp ứng nhu cầu di chuyển của khách thành phố sẽ có lựa chọn giải pháp để du lịch và người dân tại tuyến phố Bùi phát triển mô hình giao thông mới cho Viện thông qua việc phát triển một hệ du lịch tại tuyến phố nói riêng và thành thống tuyến – trạm xe đạp. Vì một số phố nói chung nhằm tiến đến hình ảnh những hạn chế về nhân lực cũng như du lịch của thành phố thân thiện với thời gian nên nghiên cứu này chỉ dừng môi trường. Nhóm hy vọng rằng đề tài lại ở việc đưa ra một hệ thống quy mô này sẽ được thực hiện để góp một phần nhỏ áp dụng mô hình bike sharing trên lợi ích vào cộng đồng và phát triển trục đường đi bộ mà ở đó đã có những quận 1 nói riêng và Thành phố Hồ Chí chi tiết cơ bản làm tiền đề cho những Minh nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO AIMEE GAUTHIER, C. H. (N.D.). The Bike Share Planning Guide. New York: ITDP. COHEN, A. (N.D.). Director of Bike Share Services. Toole Design Group. 624
nguon tai.lieu . vn