Xem mẫu

  1. THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM TS. Vũ Ngọc Xuân Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Việc thu hút và phát triển vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) tại Việt nam đạt kết quả ấn tượng với mức tăng hơn 10 lần những năm qua. Năm 2018, tổng số vốn dự án FDI đăng ký mới là 35,46 tỷ đô la, vốn FDI đã thực hiện khoảng 19,1 tỷ đô la, tăng 9,1% so với năm 2017. Trong 7 tháng đầu năm 2019, vốn FDI đạt khoảng 11,6 tỷ đô la, giảm 35,6% so với cùng kỳ năm 2018. Thu hút vốn FDI hiện nay cần phải đảm báo phát triển xanh, thân thiện với môi trường cho mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Chúng ta cải cách kinh tế từ nền kinh tế tập trung những năm 1980 thành nền kinh tế thị trường từ năm 1986, đến nay đã trải qua hơn 30 năm đổi mới. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong năm 2007 bắt đầu từ thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ, Việt Nam là một trong những nền kinh tế năng động nhất trên thế giới, phát triển thoát nhanh ra khỏi khủng hoảng bằng cách thu hút các dự án FDI đầu tư trong những ngành như điện thoại, máy tính, dệt may, dày dép, bất động sản... Bằng cách tự do hóa giá cả, mở cửa cho thương mại quốc tế và cho phép doanh nghiệp FDI, tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước (SOEs),Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế năng động trên thế giới. Chúng ta đã tận dụng được lợi thế do cuộc chiến tranh thương mại Mỹ Trung Quốc từ 2018 đến nay, thu hút hầu hết các tập đoàn hàng đầu thế giới đầu tư FDI vào Việt Nam. Nhờ đó, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình trên 7% trong thời gian 20 năm, tăng gấp bốn lần quy mô nền kinh tế đạt mức GDP khoảng 260 tỷ đô la năm 2019. Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Tổng sản phẩm quốc dân (GDP), Doanh nghiệp nhà nước (SOEs), tổ chức thương mại thế giới (WTO) 1. TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Tăng trưởng nhanh chóng việc làm và mức lương đã thay đổi cuộc sống của người dân Việt Nam. Tỷ lệ nghèo giảm trung bình 2,9 điểm phần trăm mỗi năm, từ mức 58% năm 1993 xuống mức thấp 14,2% trong năm 2010, theo chuẩn nghèo chính thức, Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo đã công bố tỷ lệ này còn 5,35% vào năm 2018. Vào giữa những năm 2000, Việt Nam đã thu hút được dòng tài nguyên bên ngoài kỷ lục, dưới hình thức FDI và ODA, tỷ lệ đầu tư tài trợ trên 40% GDP - trong số những quốc gia cao nhất thế giới. Điều này cho phép Việt Nam mở rộng cơ sở hạ tầng cơ bản và các dịch 336
  2. vụ thiết yếu cho phần lớn dân số, đạt được những thành tựu lớn trong sự phát triển của con người. Hình 1: So sánh tăng trưởng GDP ở các nước châu Á được chọn Nguồn: Cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương (EAP),2014 Giống như các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, không giống như một số quốc gia châu Á khác, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã không trở lại mức được thấy trước năm 2007 (xem Hình 1). Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế của chúng ta không còn là vì thoát ra khỏi quốc gia thu nhập thấp, vấn đề hiện khó giải quyết hơn thông qua các công cụ chính sách truyền thống của Chính phủ, chúng ta gặp nhiều nguy cơ nhằm thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình. Vấn đề về hiệu suất tăng trưởng dường như lớn hơn là tác động từ môi trường bên ngoài bất lợi. Chiến tranh thương mại Mỹ Trung suốt từ năm 2018 đến nay không có dấu hiệu hạ nhiệt. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực, thì lại có lợi thế lớn trong thu hút FDI nhằm tránh tác động thuế quan từ Mỹ. Một số lượng lớn các nhà phân tích và chuyên gia thế giới, cả về phía quốc tế và Việt Nam, cho rằng Việt Nam đã đạt đến giới hạn của những gì có thể đạt được thông qua mô hình tăng trưởng của những năm 1990 và 2000. Trong những năm tới từ 2019, chúng ta cần thay đổi mô hình tăng trưởng thông qua việc thu hút và phát triển FDI xanh, thân thiện môi trường như các sản phẩm công nghệ cao, ngành chế tạo ô tô, sản phẩm điện thoại, trí tuệ nhân tạo AI, năng lượng sạch, bất động sản du lịch và nghỉ dưỡng… nhằm đáp ứng xu hướng chuyển dịch sang cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Mối quan tâm này bắt nguồn từ một số yếu tố. Tăng trưởng trong quá khứ đã được thúc đẩy phần lớn nhờ lực lượng lao động giá rẻ, mở rộng và tái cân bằng nền kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ và sản xuất, trong đó năng suất cao hơn từ hai đến bốn 337
  3. lần. Những thay đổi cơ cấu này hiện đang diễn ra. Tăng trưởng trong tương lai cần đến từ những cải tiến về năng suất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tăng trưởng năng suất lao động đã chậm lại trong khi năng suất vốn liên tục giảm. Năng suất tổng yếu tố (một biện pháp nhằm cho thay đổi công nghệ trong nền kinh tế) đã giảm từ 19,9% vào giữa những năm 2000 xuống chỉ còn 12,5% trong giai đoạn 2007 - 2015, so với mức trung bình từ 20 đến 30% ở các nước đang phát triển. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP do tăng năng suất đã giảm từ 56% trong giai đoạn 1991 - 1995 xuống chỉ còn 8,9% trong giai đoạn 2006 - 2016. Đây là yếu tố chính cho đánh giá rằng chúng ta cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng và tìm cách thu hút FDI ở các ngành công nghệ cao, chế tạo, những sản phẩm phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Nó cho thấy rằng các vấn đề hiện tại của Việt Nam không phải do thiếu nguồn lực tài chính phát triển, mà là một thách thức ngày càng tăng trong việc sử dụng vốn một cách hiệu quả. Trên thực tế, các tác giả của Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2018 đã kết luận: “Nếu năm chuyển tiếp ban đầu của Việt Nam đã được đánh dấu bởi tăng trưởng với nguồn lực hạn chế năm năm qua có thể được dán nhãn là tài nguyên dồi dào với mức tăng trưởng hạn chế”. Trong phần này, chúng ta xem xét một số thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng mới thông qua thu hút FDI xanh và thân thiện môi trường. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ và Trung Quốc góp phần thu hút một lượng lớn FDI từ các tập đoàn nước ngoài ở Trung Quốc sản xuất ô tô điện, xe máy điện, công nghệ bán dẫn, điện thoại, trí tuệ nhân tạo AI… chuyển dịch sang Việt Nam. Chính các nguồn lực FDI này góp phần ý nghĩa thúc đẩy các tập đoàn tư nhân lớn như Vin Group, FLC, Hòa Phát, Trường Hải, Masan… phát triển tại Việt Nam. 2. VIỆT NAM ĐÃ HOÀN THÀNH QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ TỪ KẾ HOẠCH HÓA SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Việt Nam bắt đầu quá trình chuyển đổi kinh tế vào những năm 1980 tại thời điểm gặp hạn chế tài chính nghiêm trọng. Sự sụp đổ của nền kinh tế do sự cô lập kinh tế quốc tế và cấm vận bởi Mỹ và phương Tây. Việt Nam chỉ sống nhờ nguồn viện trợ của Liên Xô. Điều này có nghĩa là chúng ta lúc đó có rất ít tài nguyên có sẵn từ các nguồn bên ngoài. Tỷ lệ đầu tư vào phát triển quốc gia lúc đó là cực kỳ thấp. Tại Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986, Việt Nam nhận thấy cần phải huy động nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, bao gồm cả khu vực nhà nước, khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài (FDI) để tài trợ cho sự phát triển quốc gia. Chúng ta từ một quốc gia sống nhờ viện trợ lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới như hiện nay. Từ năm 1987, đất nước mở cửa và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Vào những năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân đã được thông qua, cung cấp khung pháp lý cho 338
  4. đầu tư khu vực tư nhân. Trong những cải cách tiếp theo vào những năm 2000, khung pháp lý cho SoEs, các công ty tư nhân Việt Nam và các công ty nước ngoài (FDI) đã được thống nhất, nhờ đó cho phép cạnh tranh bình đẳng về các điều khoản chính thức như nhau giữa các doanh nghiệp FDI, tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam cũng bắt đầu nỗ lực bền bỉ để chấm dứt sự cô lập quốc tế, bãi bỏ các hạn chế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu và thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để đạt được tư cách thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) tháng 01 năm 2019, ký Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) vào tháng 7 năm 2019. Điều này đòi hỏi rất nhiều cải cách đối với môi trường kinh doanh, bao gồm cải cách lớn đối với luật thương mại, quy tắc về sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng và hoạt động của thị trường vốn. Khung pháp lý được thay đổi và phát triển này đã giúp đưa Việt Nam trở thành một trong những điểm đến phổ biến nhất ở châu Á cho các nhà đầu tư nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, Chính phủ vẫn đang nỗ lực xây dựng năng lực thể chế ở cấp địa phương để đảm bảo rằng các quy định này được thực hiện đúng. Những cải cách này đã thay đổi căn bản cơ cấu sở hữu của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tốc độ chuyển đổi dù sao cũng đã được kiểm soát cẩn thận. Kể từ khi những động thái đầu tiên phá bỏ độc quyền nhà nước vào năm 1992, hơn một nửa số SoEs đã được chuyển đổi thông qua tái cấu trúc và bán cổ phần. Tuy nhiên, các SoEs đã được chuyển đổi vẫn còn tình trạng bình mới rượu cũ, đây vẫn là các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất trong nền kinh tế, các bộ phận quan trọng của nền kinh tế vẫn nằm trong tay nhà nước. Một số lĩnh vực chiến lược, bao gồm điện, than, dầu khí, phân bón, viễn thông, bảo hiểm, xi măng… vẫn bị chi phối bởi SoEs. Đã có nhiều cam kết ở các cấp chính trị cao nhất để thúc đẩy việc cổ phần hóa SoEs và một số nỗ lực cải thiện khung pháp lý, nhưng tốc độ đã không được duy trì, đặc biệt là từ năm 2007 và suy thoái kinh tế (Hình 2). Trọng tâm trong những năm gần đây là tăng hiệu quả SoEs thông qua việc tập hợp lại và tái cấu trúc, thay vì cổ phần hóa. Trong khi tổng cộng hơn 4.000 SoE đã được cổ phần hóa, Nhà nước tiếp tục sở hữu cổ phần trong 70% trong số đó và có cổ phần kiểm soát trong 36%. Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch hành động cổ phần hóa SoE cho giai đoạn 2011 - 2015 (Quyết định 2219/TOT- DMDN) và Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 1827/2012/QĐ-BCT về việc cổ phần hóa 100% doanh nghiệp nhà nước. Một luật mới về doanh nghiệp đã được chuẩn bị, và gần đây việc thành lập Ủy ban Quản lý và giám sát tài sản nhà nước là đầu mối để giải quyết các vấn đề với quản trị doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, việc giám sát yếu và sự thiếu minh bạch vẫn tồn tại trong lĩnh vực SoEs. 339
  5. Hình 2: Số DNNN cổ phần hóa, 1998 - 2013 Nguồn: CIEM, “Sắp xếp lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Báo cáo nghiên cứu năm 2014 Hình 3: Nguồn vốn của các doanh nghiệp tại Việt Nam sở hữu (FDI, Tư nhân và SOEs) Nguồn: Niên giám Thống kê, Tổng cục thống kê (GSO), 2012 Sự chuyển đổi không hoàn chỉnh này của khu vực doanh nghiệp nhà nước có tác động lớn đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp FDI và tư nhân ở Việt Nam. Mặc dù SOEs là lĩnh vực lớn nhất của nền kinh tế và chiếm hai phần ba tổng vốn đầu tư, nhưng nó là lĩnh vực kém hiệu quả nhất, tham nhũng và nợ xấu đe dọa sự phát triển ổn định và bền vững ở Việt Nam. 340
  6. Các công ty tư nhân đang được thúc đẩy nhằm tham gia vào việc mua các các SoEs, những doanh nghiệp luôn được hưởng quyền truy cập đặc quyền vào các đầu vào thiết yếu, đặc biệt là đất đai. Ngoài ra, cấu trúc phức tạp của sở hữu chéo giữa SoEs và các tổ chức tài chính cũng cho phép SOEs có quyền huy động tài chính lớn, sử dụng kém hiệu quả như: Vinashin hay tập đoàn dầu khí (PVN)... Do đó, nhiều nhà quan sát thấy việc hoàn thành quá trình chuyển đổi kinh tế là điều cần thiết cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam, để cho phép một khu vực FDI và tư nhân với khả năng sử dụng vốn hiệu quả hơn, đầu tư và đổi mới nhanh hơn xuất hiện. 3. VIỆT NAM CẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA FDI TRONG THỜI GIAN TỚI FDI đã tăng nhanh trong hầu hết những năm 2000, tăng vọt trong năm 2008 trong thời kỳ bùng nổ bất động sản của Việt Nam và sau đó giảm dần khi Chính phủ thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế đầu cơ bất động sản. FDI gần đây lại có dấu hiệu bùng nổ trong năm 2018 và 2019, một phần lớn do dịch chuyển từ Trung Quốc nhằm hạn chế ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ Trung. FDI là một thành phần cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, tạo ra một phần quan trọng trong tăng trưởng việc làm. Các tỉnh của Việt Nam đã cạnh tranh để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, cung cấp một loạt các khoản miễn thuế và các lợi ích khác. Tuy nhiên, có những lo ngại về chất lượng của FDI Việt Nam. Đầu tư vào hàng dệt có giá trị gia tăng thấp và hoạt động lắp ráp đơn giản vẫn chiếm ưu thế. Nhiều công ty nước ngoài mang linh kiện từ nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm của họ, mang đến một vài cơ hội cho các công ty tư nhân trở thành một phần của chuỗi giá trị quốc tế hoặc có được các kỹ năng hoặc công nghệ quản lý mới. Điều nguy hiểm là, khi tiền lương tăng, Việt Nam sẽ bắt đầu thua các nền kinh tế có mức lương thấp hơn trong khu vực như Myanmar. Vốn đầu tư nước ngoài giảm hoặc giảm nhẹ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng dường như đã tăng trở lại kể từ năm 2013 đến nay. Để tránh “bẫy thu nhập trung bình” này, Việt Nam cần thu hút chất lượng đầu tư nước ngoài và trong nước cao hơn vào các ngành năng suất cao, cho phép xây dựng chuỗi giá trị trong nước. Có một số dấu hiệu đáng khích lệ rằng điều này đang bắt đầu xảy ra trong phân ngành như điện thoại di động, ô tô và xe máy điện, công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo AI… trong đó một số thiếu hụt và hạn chế về kỹ năng chính trong môi trường kinh doanh đang cản trở sự tăng trưởng đáng kể trong các ngành công nghệ cao. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong hai mươi năm qua có bản chất là vì người nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã tạo ra việc làm rộng rãi trong khu vực tư nhân, cho phép hàng triệu người chuyển từ tự cung tự cấp hoặc nông nghiệp giá trị thấp sang việc làm công ăn lương. Điều này đã được hỗ trợ bởi đầu tư lớn vào việc mở rộng cơ sở hạ tầng và dịch vụ cơ bản trên cả nước, cùng với hệ thống an sinh xã hội hợp 341
  7. lý hiệu quả. So với các nước đang phát triển khác, Chính phủ dành tỷ lệ chi tiêu công cao hơn cho y tế và giáo dục, vào khoảng 28% ngân sách. Việc mở rộng các dịch vụ y tế và giới thiệu bảo hiểm y tế cho người nghèo đã giúp cải thiện tuổi thọ, từ đó đã thúc đẩy những cải thiện đáng kể về vị trí của Việt Nam trong Chỉ số Phát triển Con người. Việt Nam hiện đang đối mặt với một số thách thức trong việc duy trì tiến bộ về giảm nghèo. Đầu tiên, tăng trưởng kinh tế đã trở nên thâm dụng vốn hơn, tạo ra ít việc làm hơn. Tăng trưởng cũng tập trung nhiều hơn trong các trung tâm hoạt động kinh tế hiện có, mà ít lan tỏa đến các vùng miền núi có nhiều người nghèo. Điều này làm cho tăng trưởng ít tác động tới người nghèo ở các miền núi khó khăn. Khi quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam tiếp diễn, không thể tránh khỏi bất bình đẳng thu nhập sẽ tiếp tục gia tăng. Thứ hai, nghèo đói còn lại tập trung ở các khu vực địa lý và các nhóm dân cư khó tiếp cận hơn. Có sự tập trung nghèo đói cao trong các nhóm dân tộc thiểu số, những người chiếm ít hơn 15% dân số nhưng 47% người nghèo (2018). Nhiều người nghèo còn lại sống ở vùng núi và vùng sâu vùng xa. Chính phủ đã ban hành một loạt các chính sách và chương trình được thiết kế để nhắm mục tiêu vào các nhóm này. Tuy nhiên, có những thách thức đáng kể liên quan đến việc khắc phục sự loại trừ kinh tế và xã hội giữa các nhóm thiểu số, và vẫn chưa rõ rằng các công cụ chính sách phù hợp được xác định. Hình 4: Tăng trưởng GDP và giảm nghèo, 1984 đến 2012 70 60 50 40 30 20 10 0 1993 1996 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 Nguồn: UNDP, giá trị HDI và thay đổi thứ hạng trong Báo cáo Phát triển con người, Việt Nam, 2013 Thứ ba, Chính phủ đã theo đuổi chính sách “xã hội hóa” y tế và giáo dục, để thu hút các nguồn lực từ xã hội để bổ sung cho việc cung cấp dịch vụ do nhà nước tài trợ. “Xã hội hóa” là một thuật ngữ cho việc đưa các nguyên tắc thị trường vào cung cấp dịch vụ, mở ra đầu tư tư nhân và giới thiệu thu phí người dùng. Trong thực tế, chính sách này 342
  8. đã chuyển gánh nặng thanh toán cho các dịch vụ từ Nhà nước sang xã hội - chủ yếu là các hộ gia đình. Chính sách giới thiệu phí sử dụng cho một số dịch vụ nhất định đã đi kèm với thực tiễn thanh toán không chính thức, với công dân thường không thể phân biệt giữa hai phương thức tài trợ cho các dịch vụ cơ bản này là không hiệu quả và không công bằng. Một nỗ lực đáng kể là cần thiết để chuyển gánh nặng cung cấp dịch vụ tài trợ trở lại cho Nhà nước, vì vậy gánh nặng có thể được chia sẻ công bằng hơn. 4. NHỮNG THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM Việt Nam đứng trước một bước ngoặt quan trọng trong con đường phát triển quốc gia. Kể từ khi đạt được trạng thái thu nhập trung bình vào năm 2009, chúng ta đã bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế suy giảm, sự bất ổn kinh tế vĩ mô, giảm nghèo chậm, tăng trưởng kém chất lượng và thâm dụng nhiều vốn. Đây là một phần kết quả của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát, cả người Việt Nam và quốc tế lo ngại rằng, thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam có thể sắp kết thúc. Có một số yếu tố cho thách thức này. Đầu tiên, quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam vẫn chưa hoàn thành và tốc độ chuyển đổi đã chậm lại kể từ giữa những năm 2010. Bất chấp sự thiếu hiệu quả, khu vực SoEs vẫn tiếp tục được hưởng quyền truy cập đặc quyền vào các đầu vào thiết yếu như đất đai và tài chính, điều này giới hạn không gian cho khu vực tư nhân phát triển. Với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhiệm vụ hoàn thành quá trình chuyển đổi kinh tế vừa cấp bách hơn vừa khó thực hiện hơn. Thứ hai, Việt Nam cần chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên các ngành có kỹ năng thấp, giá trị gia tăng thấp sang ngành dựa trên công nghiệp cao và các ngành dựa trên tri thức được tích hợp tốt hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này sẽ cho phép Việt Nam thu hút vốn đầu tư FDI chất lượng cao hơn với lợi ích sâu rộng hơn cho nền kinh tế quốc dân. Nó kêu gọi cải thiện mức độ và chất lượng cơ sở hạ tầng, lực lượng lao động được giáo dục tốt hơn và tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh. Thứ ba, Việt Nam cần có biện pháp quản lý rủi ro gia tăng bất bình đẳng và loại trừ kinh tế - xã hội sẽ đi kèm với mô hình tăng trưởng thay đổi. Chúng ta sẽ cần phải cải thiện việc nhắm mục tiêu chi tiêu vì người nghèo, tập trung vào các nhóm bị loại trừ và các khu vực địa lý từ xa. Ngoài ra, cũng sẽ cần đánh giá lại tác động của “xã hội hóa” đối với quyền truy cập và công bằng trong các lĩnh vực xã hội. Điều này kêu gọi đánh giá lại các cách thức mà các dịch vụ cơ bản được tài trợ. Ba chuyển đổi này cần được quản lý trong môi trường kinh tế vĩ mô giới hạn phạm vi kích thích tăng trưởng thông qua đầu tư và trong bối cảnh tài chính phát triển bị hạn chế đáng kể so với trước đây. Điều này khiến cho việc tăng hiệu quả sử dụng vốn và chi thường xuyên là rất cần thiết, do đó để tối đa hóa tác động phát triển của chúng. 343
  9. Do đó, để Việt Nam đáp ứng những thách thức phát triển mới, nó cũng cần giải quyết những hạn chế trong việc sử dụng hiệu quả tài chính phát triển. Do đó, kết luận cốt lõi là thách thức mà Việt Nam phải đối mặt không phải là một cách huy động tối đa hóa dòng tài chính FDI để phát triển như trong thập kỷ qua, Việt Nam đã có đủ nguồn lực để duy trì tỷ lệ đầu tư cao. Để đạt đến mức giảm lợi tức đầu tư ở dạng hiện tại, Việt Nam hiện cần nâng cao hiệu quả của các khoản đầu tư phát triển. Hình 5: Chỉ số phát triển con người (HDI) từ 1995 - 2012 Nguồn: GSO (2013) 5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ FDI THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG GẮN VỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG Trong bối cảnh nhiều nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, biến đổi khí hậu gia tăng, xu hướng phát triển nền kinh tế xanh và bền vững đang dần trở thành xu thế của thời đại, năng lượng tái tạo, năng lượng mới được đầu tư phát triển, triển vọng trở thành nguồn năng lượng chủ đạo trong tương lai, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cũng đã cho thấy sự cần thiết phải thực hiện cải cách cơ cấu, đảm bảo bền vững môi trường, công bằng xã hội cũng như các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô. “Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định hướng hoàn thiện chính sách về FDI như sau: Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh FDI, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. 344
  10. Tăng cường thu hút FDI có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công nghệ thông tin, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nhân lực và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao… có cơ chế linh hoạt đối với các dự án đặc thù. Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai của DN đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ XII, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã và đang đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế, cải cách hành chính, tư pháp; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế; đảm bảo vận hành hiệu quả các loại thị trường; thúc đẩy thị trường hóa các nhân tố sản xuất; tập trung khắc phục bất cập về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực; phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước… Trong đó, xác định rõ mục tiêu thu hút, sử dụng vốn FDI phải đi vào thực chất hơn, cả về số lượng và chất lượng, theo cả chiều rộng và chiều sâu; đảm bảo phát triển bền vững, khuyến khích đổi mới, sáng tạo liên kết chặt chẽ giữa DN FDI với DN trong nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu và trình độ, năng lực sáng tạo của lực lượng lao động Việt Nam… Tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên gia, để thu hút và sử dụng nguồn lực FDI “xanh” hiệu quả, thời gian tới, Việt Nam cần điều chỉnh định hướng chính sách thu hút đầu tư vốn FDI như sau: Thứ nhất, ưu tiên thu hút FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng cao, dịch vụ tài chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng công nghiệp 4.0. Thu hút FDI phải bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa, phát triển công nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực trong nước. Thứ hai, về đối tác, cần tập trung vào thu hút FDI, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia liên kết với DN trong nước hình thành và phát triển cụm liên kết ngành theo từng chuỗi giá trị. Trong ngắn hạn, tiếp tục thu hút FDI vào các ngành mà Việt Nam vẫn đang có lợi thế như dệt may, da giày... Đồng thời, tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao, gắn với quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa. Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thu hút FDI từ các thị trường và đối tác tiềm năng. Khai thác có hiệu quả mối quan hệ với các đối tác chiến lược (đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện), chú trọng các nước phát triển hàng đầu thế giới, các tập đoàn xuyên quốc gia nắm giữ công nghệ nguồn, tiên tiến và trình độ quản trị hiện đại. 345
  11. Bên cạnh đó, chủ động theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng vốn FDI vào Việt Nam có công nghệ lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ một số nước trong khu vực để có giải pháp ngăn chặn kịp thời. Việc thu hút FDI từ các DN nhỏ và vừa, dự án quy mô nhỏ, siêu nhỏ phải đảm bảo điều kiện nâng cấp công nghệ và gia nhập mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Thứ ba, thu hút FDI phải phù hợp với lợi thế, điều kiện, trình độ phát triển và quy hoạch từng địa phương trong mối liên kết vùng, đảm bảo hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội - môi trường. Đối với những địa bàn, khu vực nhạy cảm, liên quan đến quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới, vùng biển, hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế, việc thu hút FDI cần bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia lên hàng đầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ Việt Nam (2016), Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. 2. Mid-term Review of the Targets of the Political Declaration on HIV, VAAC, 2013. 3. National AIDS Spending Assessment, 2011-2012, UNAIDS, 2013 (Draft January 2014). 4. Ngân hàng Thế giới/Tổ chức Tài chính quốc tế (2015), Vai trò hiện tại và tương lai của Việt Nam trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu thông tin và truyền thông - Báo cáo cơ sở cho Việt Nam 2035. 5. Nguyễn Thị Ngọc Loan (2019), “Thu hút FDI xanh gắn với mục tiêu phát triển bền vững”, Tạp chí tài chính, tháng 04 năm 2019. 6. Period, VAAC, MoH, November 2012 Spending on HIV AIDS in Vietnam - Using Investment Framework Lens, Policy Brief, November 2012. 7. Project on Sustainable Financing for HIV/AIDS Prevention and Control Activities in 2013 - 2020. 8. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư. 9. Sustainable HIV Response in Vietnam: Overview of Vietnam HIV Expenditures and Future Donor Commitments, Submitted to DPM, August 2012. 10. The HIV Epidemic in Vietnam, 2012, - a summary by and for the UN Joint HIV Team, UNAIDS, 2013. 11. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 68/TTg-2017 phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ giai đoạn 2016 - 2025. 346
nguon tai.lieu . vn