Xem mẫu

  1. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP THẨM QUYỀN CỦA THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN - PHÁP LÝ Trần Thanh Phương1 Tóm tắt: Chế định thừa phát lại ở nước ta gần đây mới được khôi phục lại và có xu hướng phát triển tích cực. Tuy nhiên, về phương diện pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động của thừa phát lại vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi để từng bước hoàn thiện. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ trao đổi xung quanh vấn đề về thẩm quyền của thừa phát lại trong thi hành án dân sự. Từ khoá: Thừa phát lại, thi hành án dân sự. Nhận bài: 10/05/2020; Hoàn thành biên tập: 05/06/2020; Duyệt đăng: 12/06/2020. Abstract: Regime of bailiffs in our country has been recently recovered and under positive development. However, lots of issues regarding to legal aspect and practice of bailiffs should be further studied, discussed to be gradually finalized. In this article, we will discuss issues related to bailiff’s authority in civil judgment enforcement. Keywords: Bailiff, civil judgment enforcement. Date of receipt: 10/05/2020; Date of revision: 05/06/2020; Date of Approval: 12/06/2020. 1. Sơ lược hình thành và phát triển chế (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí định thừa phát lại ở nước ta điểm tại một số địa phương, sau vài năm, tên cơ Thừa phát lại xuất hiện ở nước ta đồng thời sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp với sự kiện vua Tự Đức ký hòa ước ngày theo”. 05/06/1862 nhượng cho thực dân Pháp 06 tỉnh Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã ban hành Nam kỳ. Sau đó, là bản Hiệp ước ngày Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật 06/06/1884 đặt nước ta trở thành một nước dưới thi hành án dân sự trong đó có xác định rõ: “Để quyền bảo hộ của Pháp. triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số Sau Cách mạng tháng 08/1945, chế định thừa công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, phát lại được duy trì và chịu sự quản lý của Ban giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí Công lại thuộc phòng Giám đốc hộ vụ của Bộ Tư điểm chế định thừa phát lại (thừa hành viên) tại pháp. Ở Miền Nam, mô hình thừa phát lại tồn tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện trong suốt thời kỳ pháp thuộc đến chế độ của từ ngày luật này có hiệu lực thi hành chính quyền Sài Gòn cho đến khi Miền Nam (01/07/2009) đến ngày 01/07/2012. Chính phủ hoàn toàn được giải phóng (30/04/1975). tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và Ngày 02/06/2005, Bộ Chính trị đã ban hành báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định”. Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách Thực hiện chủ trương này, ngày 24/07/2009 tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nghiên cứu Chính phủ đã ban hành Nghị định số thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự thừa phát lại thí điểm tại Thành phố Hồ Chí chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ Minh. Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập thí quyền và lợi ích hợp pháp của mình… từng bước điểm 05 Văn phòng thừa phát lại. Đến tháng thực hiện xã hội hóa và quy định hình thức, thủ 08/2012 Chính phủ đã tổng kết mô hình tổ chức tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan và hoạt động thí điểm thừa phát lại tại Thành phố nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án Hồ Chí Minh để báo cáo Quốc hội xem xét, cho dân sự”; “Nghiên cứu chế định thừa phát lại ý kiến. 1 Tiến sỹ, Trưởng Khoa Đào tạo các chức danh Thi hành án dân sự, Học viện Tư pháp.
  2. Soá 06/2020 - Naêm thöù möôøi laêm Ngày 23/11/2012, Quốc hội đã có Nghị quyết án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của số 36/2012/QH13 tiếp tục và mở rộng phạm vi đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại một các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ số địa phương cho đến 31/12/2015. Ngày quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định 25/03/2013, Thủ tướng Chỉnh phủ đã ban hành thi hành án”. Tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số Quyết định số 510/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề 61 quy định tiếp: “Khi thực hiện công việc về thi án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định thừa hành án dân sự, thừa phát lại có quyền như chấp phát lại”. Thực tế đã cho phép mở rộng phạm vi hành viên quy định tại Điều 20 Luật thi hành án thí điểm ở 13 tỉnh, thành phố trực thuốc Trung dân sự, trừ Khoản 9, Khoản 10 và thẩm quyền ương. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP được sửa xử phạt vi phạm hành chính. Riêng việc cưỡng đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số chế thi hành án có huy động lực lượng bảo vệ, áp 135/2013/NĐ-CP. dụng quy định tại Điều 40 của Nghị định này”. Ngày 26/11/2015, Quốc hội sau khi nghe báo Điều 34 của Nghị định số 61 quy định về cáo tổng kết việc thí điểm chế định thừa phát lại thẩm quyền, phạm vi thi hành án của thừa phát đã ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 về lại: “(1) Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ việc chấm dứt việc thí điểm và nhất trí thực hiện chức thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự chế định thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể đối với các bản án, quyết định: (a) Bản án, quyết từ ngày 01/01/2016. Ngày 14/01/2016, Thủ định sơ thẩm có hiệu lực của Tòa án cấp huyện tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số nơi thừa phát lại đặt văn phòng; (b) Bản án, 102/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế huyện nơi thừa phát lại đặt văn phòng; (c) Quyết định thừa phát lại. định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp Đến nay theo thống kê của Bộ Tư pháp, cả tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực nước đã có 32/63 tỉnh thành phố trực thuộc pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi thừa phát Trung ương đã có các văn phòng thừa phát lại. lại đặt văn phòng”. Trong đó có 89 văn phòng với 584 thừa phát lại Như vậy, ngay từ khi thực hiện thí điểm về chế đang hoạt động (trang thông tin điện tử Cục Bổ định thừa phát lại ở nước ta, pháp luật cũng đã cho trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp). phép thừa phát lại có chức năng trực tiếp tổ chức 2. Thực trạng quy định của pháp luật về thi hành án dân sự cơ bản như chấp hành viên. Trừ thẩm quyền thi hành án dân sự của thừa phát những nhóm việc như: (1) Việc thuộc án chủ động lại - kiến nghị, đề xuất thi hành bao gồm 05 nhóm việc: Hình phạt tiền, Khi triển khai thực hiện chủ trương xã hội truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ hóa một số công việc liên quan đến thi hành án phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch dân sự của Đảng, Chính phủ đã ban hành một số thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật Nghị định để triển khai thực hiện thí điểm chế chứng, tài sản, các khoản thu khác cho Nhà nước; định thừa phát lại ở Thành phố Hồ Chí Minh và thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc tiếp theo là 13 tỉnh thành trong phạm vi cả nước. diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện Tại các Nghị định này cũng đã quy định khá rõ pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định của Tòa án về về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thừa phát giải quyết phá sản (Khoản 2, Điều 36 Luật thi lại trong thi hành án dân sự. hành án dân sự); (2) Sử dụng công cụ hỗ trợ trong Theo quy định tại Khoản 3, 4 Điều 3 Nghị thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ; định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61) thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự. (Khoản 9, công việc thừa phát lại được làm: “… (3). Xác 10 Điều 20, Luật thi hành án dân sự). minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của Tại Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày đương sự. (4) Trực tiếp tổ chức thi hành các bản 18/10/2013 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là
  3. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Nghị định số 135) sửa đổi, bổ sung tên gọi và định trước). Tinh thần của Nghị định mới đã sửa một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP đổi, bổ sung và đã có những tiến bộ hoàn chỉnh quy định bổ sung thêm một số vấn đề liên quan hơn các quy định tại các Nghị định trước đây. đến thi hành án dân sự: “Thừa phát lại thực hiện Tuy nhiên, trong phạm vi chức năng thi hành án các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị dân sự của Trưởng văn phòng thừa phát lại, thừa định này. Trường hợp Nghị định này không quy phát lại được điều chỉnh theo hướng thu hẹp lại. định thì áp dụng theo quy định của pháp luật về Nếu như các quy định trước đây cho phép thi hành án dân sự” (Mục 13 – Nghị định số thừa phát lại được thực hiện việc thi hành án dân 135). Đối với việc thừa phát lại áp dụng biện sự (trừ một số nhóm việc liên quan đến Nhà pháp cưỡng chế trong trường hợp huy động lực nước) từ khi bắt đầu (có yêu cầu của đương sự) lượng bảo vệ thì: “(1) Trong trường hợp cưỡng cho đến khi kết thúc, thì nay chức năng thi hành chế thi hành án cần huy động lực lượng bảo vệ, án dân sự của thừa phát lại bị hạn chế cơ bản, chỉ Văn phòng thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến còn lại một số chức năng như: Xác minh điều của Trưởng Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp kiện thi hành án; tổ chức thi hành các bản án, huyện nơi đặt Văn phòng thừa phát lại; (2) Trên quyết định của Tòa án (Khoản 3, 4, Điều 3, Nghị cơ sở ý kiến của Ban chỉ đạo Thi hành án dân định số 08). Mặc dù, Nghị định số 08 vẫn trao sự, Văn phòng thừa phát lại lập kế hoạch cưỡng thẩm quyền tổ chức thi hành án cho thừa phát lại chế, báo cáo Cục trưởng Cục Thi hành án dân trong phạm vi các bản án, quyết định của Tòa án sự, kèm theo hồ sơ thi hành án để Cục trưởng như quy định trước đây, nhưng nhiệm vụ, quyền Cục Thi hành án dân sự xem xét, phê duyệt kế hạn bị giới hạn ở các chức năng sau đây: hoạch cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi Một là, việc ban hành quyết định thi hành án hành án...; (3) Sau khi được phê duyệt và ra do Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban quyết định cưỡng chế thi hành án, thừa phát lại hành theo đề nghị của Trưởng văn phòng thừa thực hiện việc cưỡng chế theo quy định của pháp phát lại (điểm a, Khoản 1, Điều 52, Nghị định số Luật thi hành án dân sự và quy định của Nghị 08). Như vậy, được hiểu là trong mọi trường hợp định này về cưỡng chế thi hành án” (Mục 14 – khi thừa phát lại muốn tổ chức thi hành án dân sự Nghị định số 135). thì phải được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân Theo quy định của Nghị định số 61 và Nghị sự ra quyết định thi hành (Trưởng văn phòng định số 135 về thực hiện thí điểm chế định thừa thừa phát lại không được ban hành quyết định phát lại thì khi trực tiếp tổ chức thi hành án dân thi hành án nữa mà chỉ có chức năng “đề nghị” sự: Trưởng Văn phòng thừa phát lại được ra của cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành quyết định thi hành án; thừa phát lại được áp án). Thừa phát lại tổ chức thực hiện theo nội dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; được áp dung quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Như vậy, án dân sự. Văn phòng thừa phát lại và thừa phát ở giai đoạn này, pháp luật cho phép thừa phát lại lại không có thẩm quyền ban hành quyết định thi có chức năng thi hành án kể từ thời điểm bắt đầu hành án trong mọi trường hợp. (có yêu cầu của đương sự) cho tới khi kết thúc thi Hai là, khi tổ chức thi hành án, thừa phát lại hành án dân sự. không được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn Đến ngày 08/01/2020, Chính phủ ban hành sau đây (Khoản 2, Điều 52, Nghị định số 08): a) Nghị định số 08/2020/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện Nghị định số 08) quy định về tổ chức và hoạt pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 66, động của thừa phát lại (có hiệu lực thi hành kể từ Điều 71, của Luật thi hành án dân sự; b) Sử dụng ngày 24/02/2020). Nghị định này thay thế Nghị công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo định số 61 và Nghị định số 135 của Chính phủ quy định tại Khoản 9, Điều 20 của Luật thi hành trước đây. Nghị định số 08 áp dụng cho chế định án dân sự; c) Xử lý vi phạm hành chính; d) Yêu thừa phát lại một cách chính thức trong phạm vi cầu Tòa án xác định, phân chia, xử lý tài sản cả nước (không phải là thí điểm như hai Nghị chung để thi hành án theo quy định tại Điều 74
  4. Soá 06/2020 - Naêm thöù möôøi laêm của Luật thi hành án dân sự; đ) Yêu cầu Tòa án (1) Thực tế hoạt động của các Văn phòng tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại thừa phát lại trong những năm qua thực hiện các Khoản 2, Điều 75 của Luật thi hành án dân sự; e) biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế thi Các quyền yêu cầu Tòa án xác định người có hành án còn rất hạn chế, chưa làm được nhiều. quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ; (2) Về địa vị pháp lý của chấp hành viên (là công xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi chức nhà nước) khác với thừa phát lại (không hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu phải là công chức nhà nước, tư nhân làm nghề tự hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải do), cho nên vê quyền hạn không thể giống nhau quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản được. Có nghĩa là nhiệm vụ, quyền hạn của thừa theo quy định tại Khoản 4, Điều 68, Khoản 3, phát lại không thể như chấp hành viên được. Điều 69 và Khoản 2, Điều 102 của Luật thi hành Nhất là trong lĩnh vực áp dụng các biện pháp bảo án dân sự. đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự. (3) Việc kê Như vậy, đối với chức năng thi hành án dân biên, đặc biệt là việc cưỡng chế trong thi hành án sự của thừa phát lại mặc dù vẫn còn, nhưng đã bị có huy động lực lượng bảo vệ (cảnh sát hỗ trợ tư hạn chế cơ bản, chỉ còn lại các chức năng được pháp) là hoạt động mang tính quyền lực nhà hiểu là khá “đơn giản”. Nội dung công việc thừa nước, cưỡng chế thi hành án dân sự là hình thức phát lại được thực hiện trong thi hành án dân sự cưỡng chế dân sự, một trong những hình thức chỉ bao gồm 04 nhóm việc được quy định tại các cưỡng chế nhà nước. Trong khi đó, Văn phòng điểm a, b, c, d, Khoản 4, Điều 55 của Nghị định thừa phát lại là tổ chức tư nhân, hoạt động theo số 08 như sau: Xác minh điều kiện thi hành án; mô hình doanh nghiệp (Khoản 1, Điều 17, Nghị tổ chức thi hành án; thỏa thuận về thi hành án; định số 08). Theo đó, thừa phát lại (người trực thanh toán tiền thi hành án. tiếp tổ chức thực hiện việc thi hành án dân sự) lại Đối với việc tổ chức thi hành án của thừa không phải là cán bộ, công chức hoặc chí ít là phát lại chỉ là: “Mời đương sự, người có quyền viên chức nhà nước, nên không thể thay mặt Nhà lợi, nghĩa vụ liên quan đến giải quyết việc thi nước thực hiện cưỡng chế được. hành án”. Chỉ ở phạm vi vận động, thuyết phục Mặt khác, họ cho rằng: thừa phát lại là tư người phải thi hành án để họ tự nguyện thi hành. nhân, đã là tư nhân thì việc sử dụng lực lượng Trường hợp đương sự đồng ý thi hành thì thừa công quyền (Cảnh sát hỗ trợ tư pháp) để bảo vệ phát lại thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo về thỏa cho việc làm của tư nhân là không hợp lý. Công thuận thi hành và thanh toán tiền thi hành án theo quyền chỉ hỗ trợ công quyền khi thi hành công vụ. quy định. Thừa phát lại không được áp dụng các Quan điểm thứ hai: Giữ nguyên về thẩm biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành quyền thi hành án dân sự của thừa phát lại như án quy định tại Luật thi hành án dân sự như các quy định của Nghị định số 61 và Nghị định số chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự. 135 trước đây. Trong đó có cả chức năng cưỡng Vấn đề đặt ra ở đây cần trao đổi là: Tại sao chế thi hành án có huy động lực lượng. Luận cứ không trao quyền cho thừa phát lại được tiếp tục của quan điểm này là: thực hiện chức năng thi hành án dân sự một cách Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương “… phát đầy đủ như quy định trước đây khi thực hiện thí triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để điểm thừa phát lại ở cả hai giai đoạn? Nhất là tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu việc cắt giảm chức năng thực hiện biện pháp bảo thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án? Về vấn ích hợp pháp của mình… từng bước thực hiện xã đề này có các quan điểm khác nhau: hội hóa và quy định hình thức, thủ tục để giao Quan điểm thứ nhất: Việc trao thẩm quyền cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực về thi hành án dân sự nên trao giới hạn ở phạm hiện một số công việc thi hành án dân sự” (Nghị vi nhất định. Không nên trao cho thừa phát lại Quyết số 49/NQ-TW năm 2005 của Bộ chính trị). thực hiện biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng Như vậy, phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt chế thi hành án bởi những lập luận sau đây: động bổ trợ Tư pháp. Việc trao quyền cho thừa
  5. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP phát lại tổ chức thi hành án là nhằm thực hiện quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa chủ trương này của Đảng. Xã hội hóa công tác xã hội chủ nghĩa Việt nam. Như vậy, hình thức và thi hành án dân sự để vừa giảm tải cho cơ quan nội dung ủy quyền này là ủy quyền “đẳng cấp – thi hành án dân sự, vừa bảo đảm cho các đương giá trị pháp lý cao nhất” trong các hình thức ủy sự có quyền, có điều kiện được lựa chọn “người” quyền pháp lý. thi hành án cho họ một cách tốt nhất, hiệu quả Thứ ba, về quan điểm cho rằng thừa phát lại nhất (có thể lựa chọn cơ quan thi hành án dân là tư nhân (ngoài Nhà nước) khi thực hiện chức sự - Nhà nước hoặc thừa phát lại - tư nhân). năng cưỡng chế thi hành án dân sự có huy động Quan điểm của tác giả, đồng tình với quan lực lượng công an (quyền lực công) để hỗ trợ, điểm thứ hai, bởi các cơ sở lý luận pháp lý sau bảo vệ là không hợp lý. Tác giả không đồng tình đây: với quan điểm này. Bởi lẽ: theo quy định của Thứ nhất, về chủ trương xã hội hóa hoạt Luật Công an nhân dân năm 2018, Điều 16 quy động thi hành án dân sự của Đảng và Nhà nước định về: “Nhiệm vụ và quyền hạn của Công an ta là hoàn toàn đúng, có tính chiến lược, phù hợp nhân dân”, Khoản 2 quy định: “Chủ động phòng với điều kiện của nước ta hiện nay cũng như lâu ngừa… Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, dài, phù hợp với xu thế thời đại. Các quốc gia nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của phát triển như: Cộng hòa liên bang Đức, Cộng công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ hòa Pháp, Nhật bản… đã thực hiện mô hình này quan, tổ chức, cá nhân”. Mặt khác, Khoản 8, từ lâu. Về bản chất, hoạt động thi hành án dân sự Điều 16, Luật Công an nhân dân năm 2018 quy là một dạng hoạt động “dịch vụ công” thuộc chức định: “Thực hiện quyền quản lý về thi hành án… năng của Nhà nước. Thực ra, Nhà nước phải đảm Bảo vệ phiên tòa và thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tư đương thực hiện dịch vụ này cho xã hội (tổ chức pháp theo quy định của pháp luật”. Khoản 2, - công dân). Tuy nhiên, với triết lý, hoạt động Điều 169 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy dịch vụ công “ai” làm tốt thì trao cho họ làm. Có đinh về: “Nhiệm vụ, quyền hạnh của Bộ Công an thể là Nhà nước hoặc tư nhân làm dịch vụ này. trong thi hành án dân sự” đã quy định rõ: “Chỉ Vấn đề còn lại là chất lượng dịch vụ thế nào và đạo cơ quan Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành việc quản lý của Nhà nước ra sao? Chúng ta đã án, phối hợp bảo vệ kho vật chứng của cơ quan và đang thực hiện song song hai nền hành chính: thi hành án dân sự trong trường hợp cần thiết”. nền hành chính công (do các cơ quan công quyền Như đã phân tích ở phần trên, về bản chất, thực hiện) và nền hành chính tư (do các tổ chức chức năng của thừa phát lại là thực hiện chức tư nhân – ngoài Nhà nước) thực hiện. Nền hành năng của Nhà nước, dịch vụ công, trên cơ sở chính tư (như: công chứng, thừa phát lại, thẩm được Nhà nước ủy nhiệm để làm việc của Nhà định giá, đấu gía tài sản…) từng bước khẳng nước trong thi hành án dân sự. Mặt khác, cơ quan định được vai trò của mình trong đời sống xã hội. công an có chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ của thừa dân chúng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phát lại. Cũng như một số hoạt động bổ trợ tư cơ quan, tổ chức và công dân… Vậy tại sao lại pháp khác như: Công chứng, Đấu giá do tư nhân không hỗ trợ, bảo vệ thừa phát lại trong việc thực (Văn phòng công chứng, Công ty đấu giá…) họ thi chức năng của Nhà nước. Cụ thể là hiện thực thực hiện chức năng trên cơ sở phái sinh từ hóa những bản án, quyết định của Tòa án trong quyền lực công. Hay nói cách khác, được nhà đời sống xã hội. Hoạt động này là hoàn toàn phù nước ủy quyền (trao quyền) cho các chức danh hợp với chức năng của cả thừa phát lại và lực này (tư nhân), thay mặt cho quyền lực nhà nước lượng Công an nhân dân. Cách nhìn nhận, tiếp thực hiện một số loại hình dịch vụ công (lẽ ra cận vấn đề như vậy mới phù hợp với bản chất các cơ quan nhà nước phải đảm nhiệm toàn bộ). của Nhà nước ta là Nhà nước “phụng sự nhân Việc ủy quyền của Nhà nước cho các chức danh dân”, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. này thông qua các quy định của pháp luật. Luật Thứ tư, về vấn đề quản lý, kiểm soát của Nhà thì lại do Quốc hội ban hành. Quốc hội là cơ quan nước đối với thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành
  6. Soá 06/2020 - Naêm thöù möôøi laêm án dân sự. Chúng tôi xin được phân tích quản lý thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng nhà nước dưới hai giác độ; Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp huyện nơi Quản lý nhà nước về hành chính, tổ chức – đặt Văn phòng thừa phát lại. Trên cơ sở ý kiến nhân sự. Cũng như các chức danh Tư pháp khác, của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, Văn phòng luật sư, công chứng… Thừa phát lại, mặc dù là tư thừa phát lại lập kế hoạch cưỡng chế, báo cáo nhân, làm nghề tự do nhưng Nhà nước quản lý từ Cục trưởng Cục thi hành án dân sự, kèm theo hồ khâu đào tạo, bồi dưỡng, tập sự, bổ nhiệm, miễn sơ thi hành án để Cục trưởng Cục thi hành án dân nhiệm, cấp thẻ hành nghề… đến xử lý vi phạm, sự xem xét, phê duyệt kế hoạch cưỡng chế và ra giải quyết khiếu nại, tố cáo… Đối với Văn phòng quyết định cưỡng chế thi hành án (Mục 14 Nghị thừa phát lại Nhà nước quản lý từ khâu cho phép định số 135). thành lập, đăng ký hoạt động, chấm dứt, thu hồi Như vậy, có thể nói, quy định trước đây có quyết định thành lập, chế độ thông tin, báo cáo… những cơ chế kiểm soát rất chặt chẽ từ nhiều giác Nhìn chung, Nhà nước quản lý rất chặt chẽ đối độ khác nhau đối với tổ chức và hoạt động của với tổ chức và chức danh thừa phát lại. thừa phát lại trong tất cả các hoạt động, nhất là Quản lý nhà nước đối với thừa phát lại trong hoạt động thi hành án dân sự. Với cơ chế này, quá trình tác nghiệp thi hành án dân sự. Kể từ khi vừa đảm bảo thực hiện được chủ trương xã hội làm thí điểm mô hình thừa phát lại ở nước ta theo hóa hoạt động thi hành án dân sự; vừa đảm bảo tinh thần của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày môi trường hoạt động của thừa phát lại; vừa bảo 24/07/2009; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày đảm được trật tự pháp luật trong hoạt động thi 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung Nghị định số hành án của thừa phát lại. 61/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT- Thứ năm, theo quy định của Nghị định số BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC của Bộ Tư 08/2020/NĐ-CP thì yêu câu về chất lượng của pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát thừa phát lại được nâng lên một bước đáng kể. nhân dân tối cao, Bộ Tài chính đã quy định về Điều kiện bổ nhiệm thừa phát lại phải đạt các tiêu việc quản lý khá chặt chẽ đối với việc thừa phát chí cao: 1) Là công dân Việt Nam; 2) Có bằng lại thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự, với tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành các cơ chế kiểm soát gồm: (1) Viện kiểm sát luật; 3) Có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng theo pháp luật: Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại kiểm sát việc luật; 4) Tốt nghiệp khóa đào tạo, được công nhận tuân theo pháp luật trong việc tống đạt; việc thi tương đương đào tạo hoặc hoàn thành khóa bồi hành án theo quy định của pháp luật; có quyền dưỡng nghề thừa phát lại quy định tại Điều 7 của kháng nghị quyết định, hành vi vi phạm pháp luật Nghị định này; 5) Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả của Trưởng Văn phòng thừa phát lại, thừa phát tập sự hành nghề Thừa phát lại. Như vậy, so với lại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trước đây, trước khi bổ nhiệm thừa phát lại thì quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm (Điều phải được đào tạo bài bản và tập sự chu đáo 21, 22 Thông tư số 09). (2) Cơ chế kiểm tra về tổ (trước đây bồi dưỡng, đào tạo xong là bổ nhiệm). chức và hoạt động của Văn phòng thừa phát lại Vậy mà chức năng thi hành án lại bị co lại về do Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan phạm vi thẩm quyền. chức năng giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực 3. Kiến nghị, đề xuất hiện. Công tác thanh tra đối với tổ chức và hoạt Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra động của Văn phòng thừa phát lại được thực hiện một số đề xuất sau đây: theo quy định của pháp luật về thanh tra (Điều Một là, cần sớm nghiên cứu mạnh dạn mở 23 Thông tư số 09). (3) Đặc biệt là đối với hoạt rộng thẩm quyền của thừa phát lại đối với chức động cưỡng chế thi hành án có huy động lực năng thi hành án dân sự. Cho phép thừa phát lại lượng bảo vệ được kiểm soát bằng cơ chế pháp lý được kê biên tài sản thi hành án, được tổ chức rất chặt chẽ. Trong trường hợp này, Văn phòng cưỡng chế thi hành án dân sự, kể cả cưỡng chế có
  7. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP huy động lực lượng bảo vệ, không như quy định lại mới trưởng thành trong thi hành án dân sự. của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP mới đây. Và sứ mệnh của thừa phát lại bao giờ mới gánh Thông qua hoạt động thực tiễn này, một mặt giúp vác được. cho đội ngũ thừa phát lại trưởng thành hơn. Mặt Hai là, cùng với việc trao quyền, chúng ta khác, chúng ta có được kinh nghiệm để có những ban hành và thực thi đồng thời các giải pháp giải pháp pháp lý thích ứng nhằm quản lý và pháp lý như: Tăng tiêu chuẩn về điều kiện bổ kiểm soát hoạt động thi hành án của thừa phát lại nhiệm thừa phát lại ở mức cao hơn hiện nay là: được hiệu quả và thiết thực hơn. Không nên tư thời gian tập sự không phải là 06 tháng, mà là 01 duy theo hướng “khó quản” hoặc “sợ” thì “cấm”, năm. Trong đó, tập sự về tống đạt và lập vi bằng hoặc tư duy một chiều “tư nhân không được sử 06 tháng; tập sự chuyên về thi hành án dân sự là dụng lực lượng công quyền để làm việc tư”… 06 tháng. Mặt khác, cần kiểm định một cách Thực tế cho thấy, không giao việc, không có hoạt nghiêm túc thông qua các kỳ thi để xem xét bổ động thực tiễn thì cũng không có kinh nghiệm nhiệm thừa phát lại, nhằm bảo đảm một cách tốt thực tiễn. Nhìn chung Nhà nước đã không tạo nhất chất lượng thực sự của đội ngũ Thừa phát lại điều kiện và môi trường pháp lý cho thừa phát khi được bổ nhiệm hành nghề./. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM (Tiếp theo trang 37) Tuy nhiên, khi nhận di sản thờ cúng mà bà thẩm đều công nhận tính hợp pháp của di chúc cụ Chín để lại, bà Liên đã không thực hiện đúng di Chín trong việc cho phép những người thừa kế nguyện của bà Chín trong việc thực hiện nghĩa được bán di sản dùng vào việc thờ cúng. Di sản vụ thờ cúng cha mẹ. Bản thân bà Liên cũng dùng vào việc thờ cúng không còn, đồng nghĩa không chứng minh được việc không thực hiện với chấm dứt việc thờ cúng. Như vậy, thực tiễn nghĩa vụ là bất khả kháng. Do đó, Bản án dân sự xét xử đã hướng đến công nhận quyền chấm dứt sơ thẩm số 1209/2014/DS-ST ngày 08/10/2014 việc thờ cúng của chính người để lại di sản. Về của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã vấn đề này, tác giả cho rằng, pháp luật dân sự cần tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của bà Liên có văn bản hướng dẫn, ghi nhận việc chuyển trong việc xác định di sản để lại là tài sản chung quyền sở hữu di sản thờ cúng theo ý chí người của 10 người con của bà Nguyễn Thị Chín; mỗi để lại di sản là một trong những căn cứ chấm dứt người được xác định phần quyền sở hữu là 1/10 việc thờ cúng, tạo cơ sở đưa di sản dùng vào việc đối với tài sản chung này. Bản án dân sự sơ thẩm thờ cúng có thể trở thành đối tượng trong giao cũng tuyên chấp nhận yêu cầu của tám đồng thừa dịch dân sự. kế, tuyên giao di sản dùng vào việc thờ cúng cho Trong trường hợp người lập di chúc không ông Sáu để ở và thờ cúng cha mẹ, nếu bán phải xác định điều kiện chấm dứt thờ cúng (không cho được sự đồng ý của chín đồng thừa kế còn lại. phép chuyển quyền sở hữu di sản dùng vào việc Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 68/2015/DS-PT thờ cúng), quy định “phần di sản dùng để thờ của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Hội cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di đồng xét xử phúc thẩm cũng đã nhận định giữ sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế nguyên quyết định trên của Bản án sơ thẩm, buộc theo pháp luật” cần được làm rõ hơn. Đối với quy bà Liên giao lại di sản cho ông Sáu thờ cúng, nếu định này, tác giả kiến nghị quy định rõ hơn “phần bán phải được sự đồng ý của chín đồng thừa kế di sản dùng để thờ cúng thuộc quyền sở hữu của còn lại13. người đang quản lý hợp pháp di sản đó….”, Trong vụ án tranh chấp về thừa kế giữa bà thông qua thủ tục phân chia di sản để xác định Liên và ông Sáu, cả Tòa sơ thẩm và Tòa phúc rõ tư cách sở hữu tài sản, đồng thời chấm dứt 13 Bản án dân sự số 68/2015/DS-PT ngày 10/04/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
nguon tai.lieu . vn