Xem mẫu
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH TỰ DO THƯƠNG MẠI (FTA)
THẾ HỆ MỚI LÊN NGÀNH TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
VIỆT NAM
Phạm Thanh Nga
Hòa giải viên thương mại - Hà Nội, Hội viên Hội luật quốc tế Việt Nam, Giảng viên Luật - TOPICA
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, các quốc gia trên thế giới tăng cường ký kết các Hiệp định tự do thương mại
(FTA) đa phương và song phương để tạo ra những khu vực tự do thương mại sau khi những thỏa thuận
trong khuôn khổ WTO bị bế tắc. Không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam trong những năm qua đã và đang
đàm phán, ký kết rất nhiều FTA với các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Đáng kể đến là những FTA
thế hệ mới trong những năm gần đây với những quốc gia châu Âu EVFTA hay Hiệp định đối tác toàn diện
châu Á Thái Bình Dương CPTPP. Những FTA thế hệ mới này tác động không nhỏ đến tất cả các hoạt động
kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Trong khuôn khổ bài viết,
tác giả sẽ phân tích chi tiết những tác động của FTA thế hệ mới lên hoạt động tài chính và ngân hàng của
Việt Nam. Từ đó đưa ra những kết luận và đề xuất những sáng kiến để ngành tài chính – ngân hàng của
Việt Nam tận dụng tốt hơn nữa những lợi thế từ các FTA thế hệ mới mang lại.
Từ khóa: FTA thế hệ mới; tác động; Việt Nam; tài chính; ngân hàng.
ABSTRACT
In recent years, many countries around the World have intensified the signing of multilateral and bilateral
Free Trade Agreements (FTAs) to create free trade areas after agreements within the WTO standstill. Not
outside this trend, Vietnam in recent years has been negotiating and signing many FTAs with many
countries around the World. Notable are the new generation FTAs in recent years with European countries
(EVFTA) or Pacific area (CPTPP). These new generation FTAs have significant impacts on all socio-
economic activities of Vietnam, especially in the field of finance and banking. In the framework of this
article, the author will analyze in detail the impacts of the new generation FTAs on financial and banking
activities of Vietnam. From there, draw conclusions and propose some solutions to make better use of the
new generation FTAs’ advantages for Finance – Banking field of Vietnam.
Keywords: new generation of FTA; impact; Vietnam; finance; banking
1. Giới thiệu tổng quan
1.1. Sự hình thành và phát triển các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Các FTA thế hệ mới bắt đầu hình thành và phát triển song song với một số FTA truyền thống khác.
Động lực chủ yếu phát triển của FTA thế hệ mới đến từ xu thế toàn cầu hóa, mong muốn mở rộng thị trường,
hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế quốc tế của các nước thành viên và đặc biệt là sự trỗi dậy của chủ
nghĩa khu vực (regionalism) trong bối cảnh các cuộc đàm phán đa biên (trong khuôn khổ WTO) lâm vào bế
tắc.
Xu thế toàn cầu hóa cùng với chủ nghĩa khu vực đã có bước phát triển mạnh mẽ khi thế giới bước vào
thế kỷ XXI. Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện và thúc đẩy các hoạt động thương mại và đòi hỏi các quốc
gia phải thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa của nước mình, cùng với đó là
nâng cao các tiêu chuẩn và điều kiện, môi trường lao động. Tự do hóa thương mại càng sâu rộng, việc hợp tác
và liên kết sản xuất cũng càng được đẩy mạnh. Khi đó, nền sản xuất trên thế giới hình thành các mạng lưới sản
xuất cũng càng được đẩy mạnh. Khi đó, nền sản xuất trên thế giới hình thành các mạng lưới sản xuất và các
188
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
chuỗi giá trị toàn cầu mà mỗi quốc gia tùy thuộc vào điều kiện và năng lực của mình trở thành một mắt xích
để tham gia vào các phân đoạn chuỗi giá trị toàn cầu đó,
Mặt khác, các hoạt động thương mại thế giới ngày càng phát triển theo đà của sự phát triển các hoạt
động sản xuất và tiêu dùng. Nếu trước đây, các hoạt động thương mại chủ yếu gắn với việc sản xuất các sản
phẩm là hàng hóa hữu hình, thì ngày nay xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mang tính vô hình là đối tượng
chính của hoạt động thương mại quốc tế. Các chủ thể là những thương nhân trên thị trường thương mại thế
giới cũng gia tăng về số lượng và quy mô, thực hiện kinh doanh thương mại theo nhiều ngành nghề khác nhau
và hoạt động mang tính chuyên nghiệp hóa ngày càng cao. Các phương thức giao dịch hiện đại hơn với sự ra
đời của nhiều loại hình dịch vụ thương mại mới. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác chuyển
giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan ... trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các nhà sản xuất và
phân phối cũng được đẩy mạnh.
Trong một điều kiện hết sức thuận lợi như trên, các quốc gia đã tiến hành đàm phán các hiệp định thương
mại tự do với nội dung vô cùng phong phú và được mở rộng hơn các FTA trước đây. Điều này thể hiện ở chỗ
các FTA mới này không chỉ dừng lại ở các cam kết về thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, xúc
tiến đầu tư mà còn có cả các nội dung mới. Phạm vi cam kết của FTA đã bao gồm cả những lĩnh vực như thuận
lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan,
thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các cơ chế giải quyết tranh chấp được đổi mới, những quy định về lao động,
môi trường, thậm chí bao gồm cả các vấn đề dân chủ, nhân quyền, ... Những FTA thế hệ mới này ngày càng
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng không chỉ trong phạm vi thương mại khu vực mà còn mở
rộng trên phạm vi toàn thế giới.
1.2. Tình hình đàm phán và ký kết Các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới của Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực chủ động tham gia đảm phán và ký kết hàng loạt Hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương trong phạm vi khu vực và quốc tế. Cụ thể là các FTA sau1:
- Hiệp định thương mai tự do ASEAN CEPT/AFTA và ATIGA
- Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA)
- Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA)
- Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP)
- Hiệp đinh Thương mại Tự do ASEAN-Australia-NewZealand (AANZFTA)
- Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ (AIFTA)
- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Chi-lê
- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc
- Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản
- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)
- Hiệp định đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
2. Vấn đề và thảo luận
2.1. Các cam kết cụ thể của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng ở một số FTA thế hệ mới
Trong EVFTA, Việt Nam giữ nguyên các mức cam kết mở cửa đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng như
trong các hiệp định đã ký trong khuôn khổ WTO2 năm 2006. Về mặt nguyên tắc, Việt Nam bắt buộc phải mở
cửa các thị trường dịch vụ tối thiểu như đã cam kết trong các FTA. Tuy nhiên, Việt Nam hoàn toàn có quyền
đơn phương mở cửa thị trường rộng hơn, cao hơn so với những gì đã cam kết trong các điều ước quốc tế. Do
đó, không phải lúc nào mức mở cửa thị trường theo cam kết cũng là mức mở cửa thị trường trên thực tế. Việc
mở cửa thị trường trên thực tế chủ yếu được thể hiện thông qua các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh
1
Nguồn: Trung tâm WTO - VCCI
2
Tổ chức thương mại thế giới
189
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
áp dụng riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài trong các văn bản pháp luật trong nước của Việt Nam. Đối với
các dịch vụ tài chính và ngân hàng mà Việt Nam có cam kết trong WTO, mức mở cửa trên thực tế của Việt
Nam chỉ vừa đúng với mức cam kết. Trong EVFTA, liên quan tới dịch vụ được cung cấp qua biên giới, Việt
Nam chỉ cho phép doanh nghiệp EU được cung cấp dịch vụ sau đây qua biên giới cho khách hàng Việt Nam
thông qua các phương thức sau:
- Cung cấp, chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính
- Các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác
Về thành lập hiện diện thương mại của doanh nghiệp EU tại Việt Nam, Việt Nam cam kết như sau:
- Về loại hình
+ Ngân hàng nước ngoài được mở hiện diện thương mại dưới mọi hình thức; nếu là liên doanh vốn nước
ngoài thì không được quá 50%; nếu là chi nhánh thì không được phép mở cơ sở mới ngoài trụ sở chính của chi
nhánh
+ Công ty tài chính/cho thuê tài chính nước ngoài: Được mở dưới mọi hình thức trừ chi nhánh
- Một khi được thành lập, các đơn này không bị hạn chế việc nhận tiền gửi VND
- Trường hợp các doanh nghiệp EU muốn mua cổ phần, loại doanh nghiệp Việt Nam: Việt Nam vẫn giữ
quy định về mức cổ phần được phép mua trong ngân hàng quốc doanh; với ngân hàng thương mại thì mức cổ
phần được phép mua tối đa là 30%.
Ngoài EVFTA, CPTPP cũng là một FTA thế hệ mới có nhiều tác động đến ngành tài chính – ngân hàng
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian sắp tới. Các cam kết về dịch vụ tài chính trong
CPTPP yêu cầu các thương nhân của các quốc gia thành viên cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu
tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng, các quốc gia thành viên trong CPTPP có đủ năng lực điều hành thị
trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp xảy ra khủng
hoảng tài chính. CPTPP là một hiệp định thương mại đa phương nên FTA này cũng có quy định về việc áp
dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; tiếp cận thị trường khi thương nhân của các quốc
gia thành viên cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới. Tuy nhiên, theo CPTPP có quy định rằng, trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ tài chính
tại thị trường của quốc gia thành viên khác, nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép
cung cấp dịch vụ đó.
Các quốc gia thành viên của CPTPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số quy tắc
trong hai phụ lục đính kèm theo CPTPP và phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. CPTPP yêu cầu quốc gia
thành viên phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lai, cũng như
tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này. CPTPP cũng quy định các biện pháp và chính sách
của các quốc gia thành viên có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.
Đối với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, các quốc gia thành viên của CPTPP đã đưa ra các nguyên
tắc công nhận chính thức các quy trình thủ tục pháp lý nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, Hiệp định CPTPP
cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển
giao thông tin để phục vụ mục đích xử lý dữ liệu.
Tuy nhiên, CPTPP cũng đề cập đến các trường hợp ngoại lệ trong việc bảo hộ quyền tự chủ của các nhà
quản lý tài chính của các quốc gia thành viên, trong đó họ sẽ được quyền chủ động thực hiện các biện pháp
củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình; bao gồm, những quy định
ngoại lệ mà các quốc gia thành viên xem xét một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện pháp
không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác.
190
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
2.2. Thực trạng các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng của Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn 2005-2015, ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trung bình
khoảng 7.5%/năm3, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của toàn ngành dịch vụ trong cùng giai đoạn4.
Năm 2018, quy mô tài sản của ngành này tăng 11.5% so với năm 2017, với tổng tài sản tương đương 203%
GDP. Tính đến 31/12/2018, Việt Nam có tổng cộng 388 doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh được cấp phép hoạt
động trong 03 lĩnh vực tài chính, cụ thể như sau:
Phân ngành Số lượng doanh nghiệp Tổng cộng
Bảo hiểm 64 64
Ngân hàng – Tổ chức tín dụng phi ngân hàng 126
Ngân hàng nhà nước nắm giữ trên 50% vốn Điều lệ 04
Ngân hàng thương mại cổ phần trong nước 31
Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài 09
Ngân hàng liên doanh 02
Ngân hàng hợp tác xã 01
Công ty tài chính 16
Công ty cho thuê tài chính 10
Công ty tài chính vi mô 04
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 49
Văn phòng đại diện các TCTD 52
Chứng khoán 198
Công ty chứng khoán 105
Công ty quản lí quỹ 48
Ngân hàng lưu ký 14
Quỹ đầu tư chứng khoán 31
Văn phòng đại diện của nước ngoài 25
Các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng này đã tạo ra việc làm cho khoảng 314.000 lao động. Con số
này đã minh chứng cho việc ngành tài chính – ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát
triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngành tài chính - ngân hàng của Việt Nam đã có những tiến
bộ và phát triển vượt bậc về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lí, công nghệ thông tin, năng lực cạnh tranh
trong những năm vừa qua. Xét một cách toàn diện, các doanh nghiệp ngành tài chính đã có sự phát triển mạnh
mẽ cả về quy mô vốn, doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động
phức tạp và bất ổn nên hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư giảm tốc năm 2018. Ngoài ra, do chịu ảnh hưởng
của các cuộc chiến thương mại của các nền kinh tế lớn như căng thẳng Hoa Kỳ - Trung Quốc, nên tốc độ phát
triển của ngành tài chính – ngân hàng bị chậm lại so với những năm trước đây. Theo thống kê hiện nay, tính
đến năm 2018, quy mô tài sản của các doanh nghiệp tài chính đạt mức tương đương 203% GDP cả nước5. Các
doanh nghiệp chứng khoán tăng trưởng nhanh nhất về quy mô với mức tăng trên 20%. Trong toàn ngành tài
chính – ngân hàng, nhóm doanh nghiệp tín dụng chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt 95.5% quy mô tài sản các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính. Tổng giá trị các khoản cho vay ra nền kinh tế của doanh nghiệp tín dụng
3
Nguồn: Tổng cục thống kê – Bộ kế hoạch và đầu tư
4
5.57%/năm
5
Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
191
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
tương đương 134% GDP. Tổng tài sản của các doanh nghiệp này tăng 11.5%, vốn tự có tăng 12.3%, tỷ lệ nợ
xấu được xử lý tăng 30% so với năm 2017. Lợi nhuận sau thuế trung bình của các doanh nghiệp này tăng 40%
năm 2018, tỷ lệ này năm 2017 là 52.3%. Các doanh nghiệp chứng khoán có tổng tài sản năm 2018 tăng 20.3%
vốn chủ sở hữu, tăng 22.8% so với năm 2017. Năm 2018, lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này trung
bình tăng 15.3%, trong khi đó tỷ lệ này năm 2017 là 70%. Năm 2018, nhóm các doanh nghiệp bảo hiểm có
mức tăng tổng tài sản là 19.4%, thấp hơn so với năm 2017 chỉ số này là 25.8%.
2.3. Tác động tích cực
Trong EVFTA, Việt Nam duy trì các mức cam kết mở cửa đối với dịch vụ tài chính và ngân hàng như
các cam kết trong khuôn khổ WTO trước đó. Cụ thể, đối với dịch vụ được cung cấp qua biên giới, doanh
nghiệp của Liên minh châu Âu (EU) được phép cung cấp các dịch vụ qua biên giới cho khách hàng tại Việt
Nam, bao gồm cung cấp, chuyển thông tin và xử lý dữ liệu tài chính, các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới
và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác. Các quốc gia trong khối liên minh Châu Âu (EU) là là một trong hai thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay. EU cũng là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam
trên phạm vi toàn cầu. Các quốc gia châu Âu cũng là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Tính
đến năm 2017, đã có 24 trong số 28 quốc gia trong EU đầu tư vào Việt Nam với khoảng 2000 dự án còn hiệu
lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 21,5 tỷ USD. Các nhà đầu tư EU đã đầu tư trong hầu hết các ngành kinh
tế quan trọng của Việt Nam, tập trung nhiều nhất vào ngành công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ,
bao gồm cả dịch vụ tài chính – ngân hàng. Vì vậy, việc đàm phán và ký kết thành công hiệp định thương mại
tự do Việt Nam và EU (EVFTA) là việc làm hết sức cần thiết và được đánh giá là sẽ có tác động tích cực đến
nền kinh tế của các bên tham gia ký kết, bao gồm cả hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Hiệp định
sẽ giúp các công ty châu Âu ưu tiên tiếp cận thị trường gần 100 triệu người tiêu dùng của Việt Nam, tăng đầu
tư, tạo thêm việc làm, thúc đẩy thương mại với một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á. Các nhà
xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận các khách hàng tiềm năng là các công dân của các quốc gia
thành viên liên minh châu Âu với mức thu nhập cao và nhu cầu tiêu dùng lớn. Các sản phẩm và dịch vụ trong
cơ cấu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU không cạnh tranh đối đầu trực tiếp với nhau mà ngược lại, mang
tính bổ sung, hỗ trợ nhau. Chính những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau đã dẫn đến các sản phẩm, hàng
hóa của Việt Nam và EU khác nhau. Đây là điều kiện để Việt Nam và EU có thể tăng cường thúc đẩy xuất
nhập khẩu hàng hóa của nhau. Tính đến năm 2016, kim ngạch thương mại hai chiều đã tăng hơn 10 lần, từ
mức 4.1 tỷ USD năm 2000 lên hơn 50.4 tỷ USD; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng 13.6 lần6 và
nhập khẩu từ EU vào Việt Nam tăng hơn 9 lần7. Các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU hiện
nay là giày dép, dệt may, cà phê, đồ gỗ, hải sản. Ngay khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ
ngay 65% các loại thuế nhập khẩu từ EU, và phần còn lại sẽ xóa bỏ theo lộ trình trong vòng 10 năm. EVFTA
khi được thực thi, nhất là việc dỡ bỏ thuế quan, xúc tiến đầu tư, thúc đẩy công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn,
cải thiện quy tắc xuất xứ và chứng nhận xuất xứ; cải thiện môi trường tạo thuận lợi thương mại giữa Việt Nam
và các quốc gia EU phát triển một cách toàn diện và nhanh chóng. Các quốc gia EU cũng tiến hành hỗ trợ kỹ
thuật tăng cường nhận thức và áp dụng những tiêu chuẩn của thị trường EU. Những hoạt động này sẽ mang lại
nhiều cơ hội để Việt Nam mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương phát triển, kéo theo việc sử dụng các dịch vụ tài
chính – ngân hàng trong việc thanh toán, bảo hiểm hàng hóa sẽ phát triển. Việc thực hiện thương mại điện tử
cũng giúp cho việc sử dụng các hình thức thanh toán điện tử như ví điện tử, e-banking phát triển mạnh mẽ.
Trong khoảng 10 năm gần đây, thị trường tài chính Việt Nam tăng trưởng ở mức độ cao và khá ổn định.
Dịch vụ tài chính – ngân hàng của Việt Nam rất tiềm năng dựa trên sự phát triển của hoạt động đầu tư, sản
xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư tăng
nhanh cùng sự thay đổi về chính sách quản lý tiền tệ; các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng có những bước
chuyển mạnh về chuyên môn, kỹ năng quản lý, công nghệ thông tin, qua đó nâng dần năng lực cạnh tranh là
6
từ 2.8 tỷ USD lên hơn 38.3 tỷ USD
7
1.3 tỷ USD lên 12.1 tỷ USD
192
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
những yếu tố cần thiết thúc đẩy sự phát triển một thị trường tài chính đang phát triển. Do đó, khi các cam kết
trong EVFTA và CPTPP chính thức đi vào thực thi, nhu cầu đối với dịch vụ tài chính sẽ gia tăng theo sự tăng
trưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu nhằm tận dụng cơ hội ưu đãi thuế quan trong FTA
thế hệ mới này. Các FTA thế hệ mới cũng tạo cơ hội cho các nhà đầu tư kinh doanh dịch vụ tài chính của Việt
Nam tại thị trường nước ngoài vì các quốc gia đối tác sẽ mở cửa dịch vụ tài chính cho Việt Nam ở mức cao
nhất. Thực tế cho thấy, ngay sau khi EVFTA được ký kết, nhiều nhà đầu tư tài chính tiềm năng của EU đã đến
khảo sát, thăm dò thị trường tài chính của Việt Nam. Cùng với đó là việc tổ chức những diễn đàn, tọa đàm và
hội thảo song phương, đa phương giữa các đối tác nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư. Điều này cho thấy nhà đầu tư
của các quốc gia trong EU rất quan tâm hơn đến thị trường tài chính Việt Nam và EVFTA thúc đẩy họ đầu tư
nhiều hơn.
Bên cạnh đó, sự hiện diện của các nhà đầu tư tài chính đến từ các quốc gia ký kết các FTA thế hệ mới
với Việt Nam cũng sẽ tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường tài chính ở Việt Nam trở nên mạnh mẽ hơn. Điều
này sẽ giúp cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính
– ngân hàng. Buộc họ phải cải thiện chất lượng dịch vụ của các sản và đưa ra nhiều loại hình dịch vụ tốt hơn
cho khách hàng. Nhờ đó người tiêu dùng trên thị trường tài chính – ngân hàng của Việt Nam có cơ hội được
sử dụng những dịch vụ chất lượng cao hơn với giá cả hợp lí hơn vì có nhiều lựa chọn phong phú hơn từ các
nhà cung cấp dịch vụ mang lại.
2.4. Thách thức đối với ngành tài chính – ngân hàng của Việt Nam khi thực thi các FTA thế hệ mới
Bên cạnh những tác động tích cực thì FTA cũng được đánh giá là sẽ đặt ra những thách thức không nhỏ
cho ngành tài chính – ngân hàng của Việt Nam.
Thứ nhất, áp lực cạnh tranh từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài trên thị trường Việt Nam
ngày càng lớn. Áp lực này một mặt là do Việt Nam mở cửa thì trường dịch vụ tài chính theo một số cam kết
FTA (ví dụ trong ASEAN, trong CPTPP …), qua đó mở đường cho nhiều nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước
ngoài vào đầu tư tại Việt Nam hoặc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới cạnh tranh với doanh nghiệp Việt Nam.
Mặt khác, Việt Nam mở cửa mạnh nền kinh tế theo các FTA khiến thương mại – đầu tư và hoạt động xuất
nhập khẩu diễn ra rất sôi động. Từ đó, tạo ra thị trường hấp dẫn thu hút sự tham gia của các nhà cung cấp dịch
vụ tài chính nước ngoài tại Việt Nam, dẫn tới sức ép cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp tài chính của Việt
Nam.
Nhu cầu đối với dịch vụ tài chính ngày càng cao, không dừng lại ở giá cả dịch vụ mà đòi hỏi mức độ
phong phú về dịch vụ, chất lượng dịch vụ. Cùng với quá trình hội nhập, sự phát triển của công nghệ và khả
năng sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính ở Việt Nam cũng
có đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, loại và giá dịch vụ tài chính. Trong bối cảnh Việt Nam đã mở cửa, gỡ
bỏ dần các hạn chế đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài, doanh nghiệp tài chính Việt Nam
bị đặt trong thế buộc phải cạnh tranh bình đẳng hơn để thu hút khách hàng.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong các dịch vụ tài chính đặt ra thách thức trong việc bảo mật
thông tin, quản trị và bảo vệ an toàn dữ liệu thông tin. Thách thức về an toàn giao dịch và an toàn thông tin
trong các giao dịch tài chính, đặc biệt là giao dịch điện tử vốn là thách thức với tất cả các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ, thách thức này còn lớn hơn nữa. Với các doanh nghiệp Việt Nam
có trình độ công nghệ không thực sự cao, nguồn lực đầu tư cho vấn đề này lại chưa thể cạnh tranh được với
các doanh nghiệp nước ngoài nên thực sự đây là một thách thức lớn cho ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam
trong giao đoạn hiện nay và trong tương lai.
Những thách thức trên không phải là mới đối với các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng của Việt Nam
khi ký kết và thực thi các FTA thế hệ mới, chúng đã tồn tại trước đó rất lâu và vẫn đang là thách thức cho tới
giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp tài chính – ngân hàng của Việt Nam đã và đang
tìm được những giải pháp để vượt qua những trở ngại, khó khăn thách thức này để nâng cao năng lực cạnh
tranh và phát triển kinh doanh trong lĩnh vực của mình.
193
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
3. Kết luận và đề xuất
3.1. Kết luận
Từ những phân tích và đánh giá ở trên, chúng ta có thể thấy rằng việc ký kết các Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới của Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Những FTA này đã và sẽ có những
tác động rất lớn đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và trong ngành tài chính – ngân
hàng nói riêng. Việc thực thi các cam kết trong các FTA này không chỉ mang lại những lợi ích tích cực, thúc
đẩy các hoạt đồng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng phát triển nhanh chóng với nhiều sản phẩm, dịch vụ
mới, mô hình hoạt động càng được mở rộng không chỉ thị trường trong nước và ở quy mô toàn cầu mà chúng
còn tác động tích cực đến việc cải cách thể chế, pháp luật về tài chính – ngân hàng, thói quen tiêu dùng các
dịch vụ tài chính – ngân hàng của khách hàng Việt Nam cũng sẽ thay đổi. Khi mở cửa thị trường trong lĩnh
vực tài chính – ngân hàng thì một vấn đề cấp bách được đặt ra là nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng trong nước để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đến từ các quốc gia là một bên ký kết của
các FTA thế hệ mới. Đồng thời, những ngân hàng, tổ chức tài chính yếu kém sẽ bị phá sản, loại bỏ khỏi thị
trường, chỉ giữ lại những tổ chức tài chính – ngân hàng thực sự tốt, uy tín trong nền kinh tế. Từ đó, tạo ra một
nền tài chính – ngân hàng phát triển bền vững hơn, phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt hơn.
Bên cạnh những lợi ích tích cực mà những FTA thế hệ mới mang lại cho ngành tài chính – ngân hàng của các
bên ký kết thì những FTA này cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các cơ quan quản lí của nhà nước
cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng của Việt Nam trong thời gian sắp
tới. Chính vì vậy, việc đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ, nhận diện cả những tác động tích cực, cơ hội
cũng như thách thức mà các FTA thế hệ mới mang lại là một việc làm hết sức cần thiết của cả các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cũng như các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng để từ đó có thể xây
dựng những kế hoạch hành động và giải pháp phù hợp cho từng tình huống cụ thể, mang lại hiệu quả thực thi
cao nhất những FTA này.
3.2. Đề xuất
Từ những phân tích nêu trên, để phát huy những tác động tích cực và tận dụng hiệu quả nhất những lợi
thế cũng như khắc phục những mặt tiêu cực, thách thức mà FTA thế hệ mới đặt ra cho cơ quan quản lý nhà
nước và các ngân hàng, công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam cần tìm ra những giải pháp
có tính khả thi.
Để thích ứng và nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết trong EVFTA và CPTPP, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cần xây dựng một lộ trình, chương trình hành động quốc gia một cách cụ thể bằng những kế hoạch
hành động cụ thể từ trung ương đến địa phương. Theo đó, các cơ quan chức năng cần chú ý rà soát các cam
kết cụ thể của lĩnh vực tài chính – ngân trong các FTA thế hệ mới. Từ đó, thiết lập danh mục các vấn đề về
mặt thể chế cần được giải quyết (bao gồm cả về luật pháp và bộ máy quản lý, vận hành). Đặc biệt là các biện
pháp hỗ trợ nâng cao năng lực, đóng góp kỹ thuật, thiết kế cơ chế và hỗ trợ nguồn lực xây dựng, vận hành bộ
máy phù hợp với tính chất, chức năng và đảm bảo tính khả thi trong triển khai; tăng cường chất lượng quản lí
của các thể chế thị trường đối với các tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng.
Các ngân hàng và tổ chức tài chính cũng cần chủ động nhận diện và chuẩn bị năng lực, các phương án
cụ thể về thông tin, tài chính, nhân sự và kỹ thuật… để khai thác các cơ hội và vượt qua các thách thức trên cơ
sở thực tiễn và lộ trình cam kết được các cơ quan chức năng cung cấp công khai. Các tổ chức tài chính và ngân
hàng của Việt Nam cần đổi mới mô hình phát triển, nâng cao chất lượng và tạo ra nhiều loại hình dịch vụ mới
để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng cũng như có thể cạnh tranh với các dịch vụ của các ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam sau khi các FTA thế hệ mới có hiệu lực.
Để tận dụng tối đa những lợi ích cũng như vượt qua những thách thức mà các FTA thế hệ mới mang lại,
trước hết các ngân hàng, công ty tài chính của Việt Nam cần có một nguồn nhân lực là đội ngũ những người
lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế. Đây là điều kiện cần
thiết để ngân hàng có thể nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, từ đó tạo ra năng lực cạnh tranh tốt hơn để
cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cho các nhà đầu
194
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
tư nước ngoài sau khi các FTA có hiệu lực. Bên cạnh việc tuyển dụng đầu vào những lao động có kiến thức,
kỹ năng, trình độ chuyên môn cao về tài chính ngân hàng, thì các ngân hàng, công ty tài chính cũng cần có
những kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra, sát hạch những lao động đang có để họ có thể tích lũy thêm
những kinh nghiệm, kiến thức mới đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ hội nhập, cách mạng
công nghiệp 4.0. Đồng thời việc này cũng sẽ loại bỏ được những lao động yếu kém, chây ỳ, cắt giảm lao động
có tay nghề thấp để thay thế bằng lao động có tay nghề cao. Các ngân hàng và công ty tài chính cũng cần có
những chính sách đãi ngộ thích đáng để giữ chân người tài làm việc cho mình, tránh để chảy máu chất xám.
Xa hơn là tránh sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam sang các nước khu vực và thế
giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng đối với việc mở rộng thị trường dịch vụ tài chính -
ngân hàng tại Việt Nam. Bên cạnh những cơ hội thì các FTA thế hệ mới cũng có thể tiềm ẩn không ít rủi ro và
thách thức cho nền kinh tế nói chung và ngành tài chính - ngân hàng nói riêng. Do đó, hệ thống tài chính -
ngân hàng cần phải không ngừng đổi mới, sáng tạo và nâng cao năng lực quản trị. Năng lực quản trị của các
ngân hàng và các tổ chức tài chính của Việt Nam trong những năm qua đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, trước một áp lực cạnh tranh ngày càng cao trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp nhận vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài thì các ngân hàng và công
ty tài chính của Việt Nam cần tiếp nhận và học hỏi các kỹ năng quản lí từ những người nước ngoài thông qua
quá trình chuyển giao công nghệ và tập huấn từ chuyên gia nước ngoài, những người quản lí là nười nước
ngoài trong tổ chức ở Việt Nam. Trong thời gian đầu vận hành tổ chức, có thể thuê nhà quản lí và điều hành
là người nước ngoài có kiến thức và kỹ năng chuyên nghiệp. Trong thời gian đó, các nhà quản lí, điều hành
của Việt Nam trong các ngân hàng, tổ chức tài chính cũng cần nhanh chóng lĩnh hội những kiến thức và kỹ
năng quản trị mới để có thể điều hành ngân hàng, tổ chức tài chính của Việt Nam một cách hiệu quả, có khả
năng cạnh tranh với những ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng như mở rộng thị trường của
các ngân hàng Việt Nam ra nước ngoài khi các FTA có hiệu lực. Có như vậy, các tổ chức tài chính, ngân hàng
Việt Nam mới có thể vượt qua các thách thức để tận dụng tối đa những lợi ích mà các FTA thế hệ mới mang
lại.
Vấn đề công nghệ và bảo mật cũng đặt ra không ít thách thức đối với ngành tài chính – ngân hàng hiện
nay, đặc biệt là việc gia tăng các tội phạm an ninh mạng với những giao dịch ngân hàng và tài chính điện tử,
trên môi trường internet toàn cầu. Vì vậy, trong xu thế hội nhập quốc tế sau FTA thế hệ mới có hiệu lực, các
ngân hàng và công ty tài chính cũng cần có những đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng công nghệ, máy
móc cũng như có những công nghệ mới để bảo mật thông tin cũng như an toàn tài sản cho khách hàng, tạo ra
uy tín, chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính cũng cần xây dựng cơ chế
và chu trình bảo mật, hợp tác quốc tế, nhất là với các tổ chức tài chính quốc tế để có thể giải quyết những khiếu
nại, tranh chấp với khách hàng khi có những vấn đề xảy ra đối với khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Từ đó
nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo tâm lý an tâm cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng và các
công ty tài chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hiệp định tự do thương mại Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA)
[2] Hiệp định tiến bộ đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
[3] www.trungtamwto.org.vn
[4] www.tapchitaichinh.vn
[5] Cẩm nang hướng dẫn thực thi EVFTA và CPTPP của VCCI
195
nguon tai.lieu . vn