Xem mẫu

  1. Phân Tích Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 9 1.ĐỒNG CHÍ – CHÍNH HỮU ‘’Mấy chục năm thời gian đã phai màu Chiến tranh đi qua nỗi đau ở lại Tình đồng đội trong ta còn sống mãi Không biết bạn mình hiện tại nằm đâu.’’(Tình đồng chí-Nguyễn Đình Huân) Văn học là một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Trong những năm kháng chiến ác liệt thì hình ảnh hiện thực luôn là nút chạm đặc biệt tạo dấu ấn riêng đặc biệt là tình cảm đồng chí đồng đội cao cả.Ta càng cảm nhận được bức tranh hiện thực đó qua những tác phẩm của nghệ sĩ Chính Hữu.Ông là nhà thơ quân đội và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Thơ ông không nhiều nhưng vẫn có những đứa con nghệ thuật đặc sắc với chủ đề xuyên suốt về người lính và chiến tranh. Nổi bật trong kho tàng đó là bài thơ ‘’Đồng chí’’ -được viết năm 1948 ,sau khi thi nhân cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, in trong tập ‘’Đầu súng Trăng Treo’’ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính với tình cảm đồng chí đồng đội thiêng liêng và qua đó ca ngợi thứ tình cảm ấy. 1. Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý giải  về cơ sở của tình đồng chí.   Bằng ngòi bút tài hoa của Chính Hữu,ông đã từ từ dẫn những đọc giả vào dòng thơ đầu  tiên.Trước hết tình cảm đồng chí đồng đội được xây dựng khi những người lính tương  đồng về cảnh ngộ,xuất thân nghèo khó:                  “Quê hương anh nước mặn đồng chua                      Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” Với nghệ thuật cấu trúc song hành tự nhiên cùng giọng thơ tâm tình thủ thỉ như lời kể  chuyện,tâm sự kết hợp với những thành ngữ một cách trau chuốt,thi nhân thể hiện được rõ  nét về hoàn cảnh,xuất thân nghèo khó,vất vả của những người lính. Người thì ở "nước mặt  đồng chua" là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, người lại ở nơi"đất cày lên sỏi đá"  là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Sống ở những vùng như vậy, họ phải  đổi cả trăm bát mồ hôi để lấy một bát cơm quý giá. Qua hình ảnh thơ đặc sắc đó cho ta thấy  được sự gian khổ, vất vả của những người lính, dù sống khác vùng miền nhưng đều có chung  một đặc điểm đó là cuộc sống lam lũ, vất vả ,tần tảo .Họ là những người nông dân đã cởi bỏ áo nâu ruộng đồng để khoác lên mình màu xanh áo lính.Cũng gợi ca về hình ảnh  người lính nông dân ta bắt gặp qua những dòng thơ trong bài ‘’Đất nước’’ của Nguyễn Đình  Thi: 
  2. ‘’Ôm đất nước những người áo vải                                                                                                   Đã đứng lên thành những anh hùng.’’ Từ hai câu thơ đầu ta cảm nhận được sự gần gũi,thắm thiết qua cách xưng hô anh ­tôi cho  đến sự tương đồng sâu sắc về cảnh ngộ cũng như hoàn cảnh xuất thân nghèo khó của những  người lính trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.                                                                        Thứ tình cảm thiêng liêng ấy còn được xây dựng bền chặt qua sự tương đồng,nhất quán  về mục đích,lý tưởng chiến đấu và cùng sát cánh bên nhau,chung nhiệm vụ chiến  đấu.Đó chính là gốc rễ để tình cảm đồng chí đồng đội nảy nở thêm bền chặt:                      "Anh với tôi đôi người xa lạ                                                                              Tự phương trời   chẳng hẹn quen nhau.                                                                        Súng bên súng, đầu sát  bên đầu.’’                                                                            Trước khi vào môi trường quân đội họ đều là những người xa lạ và chưa hề quen biết, những  người lính cách nhau tận mấy phương trời .Thế nhưng họ cùng nghe theo tiếng gọi non  sông,cùng một nhịp đập của trái tim mà từ mọi miền Tổ quốc trở về cùng một đội quân ,đó là  chiến trường chống Pháp ác liệt, đẫm máu. Trong môi trường quân đội ,tổ đội như mái ấm  gia đình còn tình đồng chí đồng đội chính là tình máu mủ ruột thịt. Cái xa lạ xa cách nhau lúc  ban đầu dường như bị phá bỏ bởi sự tương đồng về mục đích và lý tưởng chiến đấu. Điều  đó còn xóa bỏ hoàn toàn bức tường lạnh lẽo với những người lính với nhau.Đồng điệu với  Chính Hữu,Hồng Nguyên cũng từng khắc ngòi bút về cái xa lạ ban đầu của những người  lính :  ’’   Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ                                               Gặp nhau hồi chưa biết chữ                                                                               Quen nhau từ buổi ‘’một hai’’                                                                              Súng bắn chưa quen                                                                                         Quân sư mươi bài                                                                                                 Lòng vẫn cười vui kháng chiến’’(Nhớ) Đặc biệt tạo cho người đọc nhiều ấn tượng là hình ảnh thơ sóng đôi thể hiện được nhiều  tầng nghĩa vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang sức biểu tượng cao. ‘’Súng’’ tức là nhiệm vụ  mục đích chiến đấu, còn ‘’Đầu’’ chính là biểu tượng của ý chí kiên cường cách mạng của  người lính. Hình ảnh giàu đẹp đó thể hiện được sự gắn bó mật thiết giữa người lính với  nhiệm vụ và ý chí chiến đấu kiên cường mãnh liệt.Hơn thế, tác giả còn sử dụng nghệ thuật  điệp ngữ qua điệp từ’’ bên’’ càng bày tỏ sự gắn kết chặt chẽ với nhau của họ cùng sự tâm  đầu ý hợp vốn có.’’ Với giọng điệu mộc mạc, giản dị mà sâu sắc cho ta thấy được sự tương  đồng về mục đích, lý tưởng và nhiệm vụ chiến đấu là cơ sở nòng cốt của tình đồng chí,đồng  chí.                                                                                                Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi gian   lao cũng như niềm vui, nỗi buồn:                                                    “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”                                                                     Với giọng thơ ngắn gọn, súc tích cùng giọng điệu tâm tình,Chính Hữu đã thể hiện sâu sắc sự  gian khổ ,khó khăn và thiếu thốn của những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp. Ở nơi chiến trường đầy khói bom thuốc súng, người chiến sĩ phải chống chọi với cái rét.  Họ cùng đắp chung một mảnh chăn mỏng dính, kín chân thì lại hở đầu mà kín đầu lại hở  chân.Cũng nhắc đến cái giá rét cùng chiếc chăn mỏng ấy ta nhớ ngay đến bài thơ ‘’Chiều  mưa đường số 5’’ của Thâm Tâm: 
  3. Ôi núi thẳm rừng sâu                                                Trung đội cũ về đâu                                                                                                    Biết chăng chiều mưa mau                                                                                      Nơi đây chăn giá ngắt                                                                                            Nhớ cái rét ban đầu                                                                                                Thấm mối tình Việt Bắc.’’         Hay trong bài thơ ‘’Lên Tây Bắc’’ của Tố Hữu có viết:   Đêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương. Từ đó cho ta thấy được sự cảm thông sâu sắc của những người lính để rồi họ chia sẻ thấu  hiểu cho nhau và trở thành những người đồng đội đồng chí gắn bó ,cuối cùng trở thành những  người bạn tri kỷ.   Hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn’’. “Chung chăn” có nghĩa  là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt  qua cái lạnh, mà sự gắn bó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình  đồng chí, đồng đội. Đặc biệt gây cho ta nhiều cảm xúc mãnh liệt là câu thớ thứ bảy:                        ’’Đồng  chí’’                                                                                                  Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí” và  dấu chấm than ở cuối, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh  hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một  tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng  liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng  hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra  ý tiếp theo: đồng chí còn là những biểu hiện cụ thể và cảm động ở mười câu thơ sau. Câu thơ ấy như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của 1 tình cảm Cách  mạng mới mẻ chỉ có ở thời đại này.                                           2. Mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của  tình đồng chí đồng đội. Đồng chí trước hết đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của  nhau: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ  luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi   đánh giặc,lên đường theo tiếng gọi của TQ. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra  đi, biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và   đó cũng là quyết định ra đi mà không dửng dưng vô tình.Từ ‘’mặc kệ’’thật mộc mạc nhưng  lại ẩn chứa một thái độ kiên quyết dứt khoát ,mặc kệ mà không hề dửng dưng vô tình ,họ  ra đi nhưng từ  trong sâu thẳm những người lính vẫn nhớ  về  quê hương, họ  vẫn biết nơi  quê nhà ruộng  nương vẫn chờ tay người cày xới ,gian nhà lung lay trong gió chờ người sửa  
  4. sang và nơi giếng nước gốc đa có ánh mắt người thân trông ngóng . Lời thơ của Chính Hữu có sự đồng điệu với một ý thơ của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ “Đất nước”: Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương.  “Giếng nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ đặc sắc kết hợp cùng nghệ thuật nhân hóa ‘’nhớ  người ra lính’’tô đậm sự nhớ nhung da diết của những người lính về quê hương và niềm  mong ngóng người thân nơi hậu phương của người lính. Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ  người lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là  người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín,  riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi  nhớ. Cũng  nói v  ề nỗi nhớ ấy,trong bài thơ ‘’Bao giờ trở lại’’,Hoàng Trung Thông viết:  ‘’Bấm tay tính buổi anh đi Mẹ thường vẫn nhắc :biết khi nào về? Lúa xanh xanh ngắt chân đê Anh đi là để giữ quê quán mình Cây đa bến nước sân đình Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.’’ Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi   quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:  ‘’Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá                                                                                                                  Chân không giày.’’                                                                                                 Họ đã  nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh tật và những  cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải qua. Cơn sốt rét từng đã  trở thành căn bệnh phổ biến với những người lính trong những năm đầu kháng chiến chống  pháp, ăn uống kham khổ, thiếu thốn thuốc men .Từ ‘’biết’’ ở đây là cùng nhau niếm trải cùng  nhau, chịu bao thử thách, cùng động viên, thấu hiểu nhau để vượt qua bệnh tật.Và chính tình  đồng chí đã giúp cho người lính thêm sức mạnh để sát cánh bên nhau. Đây là hoàn cảnh chung  của bộ đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Trong những ngày đầu của cuộc  kháng chiến chống Pháp, quân đội Cụ mới được thành lập thiếu thốn đủ đường quần áo rách  bươm phải buộc túm lại nên người lính Vệ Quốc còn được gọi là ‘’vệ túm’’ hay ‘’vệ  trọc’’. T a càng th   ấy được sự vất vả ấy  c   ủa những người lính  trong th   ơ của Quang Dũng :    ‘’ Tây Ti   ến đoàn quân không mọc tóc /   Quân xanh màu lá giữ oai hùng .’’    Thật chạnh lòng khi  thấu hiểu những gian nan và thế hệ cha ông ta đã từng chạy vừa trào dâng niềm kính phục ý  chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc năm nào.Những hình ảnh thơ được 
  5. đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao từ đó diễn ta sâu sắc sự gắn bó đồng  cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu thốn gian truân, cục nhọc của đời lính. Những người lính còn cùng nhau sẻ chia vượt qua những thiếu thốn khi quân phục không đầy  đủ: áo rách, quần vá, chân không giày .Sự sẻ chia mọi vất vả gian lao ấy cũng được gặp thấy  trong thơ của Hồng Nguyên: ‘’Là húp nước uống chung,nắm cơm bẻ nửa                                                                 Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa                                                       Chia khắp anh em một mẩu tin nhà                                                                      Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp                                                       Chia nhau cuộc đời ,chia nhau cái chết.’’                                                         Những câu thơ  sóng đôi nhịp nhàng thể hiện sự tương đồng trong cảnh ngộ của những người lính và cả sự  đồng cam cộng khổ gắn bó sẻ chia những khó khăn . Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ     cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Chính bởi tình  đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên  buốt giá. Và chính bởi sự đoàn kết để tạo nên sức mạnh của tình đồng chí giúp họ vượt qua  những khó khăn, gian khổ :                                                                “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính .Hai chữ ‘’thương nhau’’ đặt lên đầu câu khiến  cho nhịp thơ như lắng lại. ‘’Thương’’ chứ không phải là ‘’yêu’’ trong ‘’thương’’ không chỉ có  tình yêu mà còn là cả sự cảm thông chia sẻ nghĩa tình.’’Tay nắm lấy bàn tay’’ là cái bắt tay  đầy tình nghĩa. Đó là cái nắm tay thân mật thắm thiết siết chặt tình đồng đội .Cái nắm tay ấy  không chỉ truyền cho nhau hơi ấm để vượt qua giá lạnh mà còn truyền cho nhau ý chí chiến  đấu và ngọn lửa cách mạng.Cái nắm tay ấy không ồn ào mà âm thầm, lặng lẽ nhưng đó là  hơi ấm của trái tim ,hơi ấm của tình người, của những người đồng chí đồng đội. Chính tình  cảm ấy là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách,  để luôn vững tay súng hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.Câu thơ không chỉ nói lên tình  cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy. 3. Ba câu cuối của bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí,  đồng đội cao đẹp. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh,bức tượng đài về người lính rất đặc sắc: “Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”. Hình ảnh ‘’rừng hoang­ sương muối’’ gợi cho ta thấy được sự khắc nghiệt của thiên nhiên  nơi núi rừng Việt Bắc như thử thách những người chiến sĩ .Câu thơ gợi lên cảnh tượng chiến  trường hoang vu,giá buốt của những đêm đông lạnh lẽo đến thấu xương. Hình ảnh những  người lính sát cánh bên nhau trong tư thế hoàn toàn chủ động, bình tĩnh,hiên ngang chờ giặc 
  6. tới.Chính tình đồng chí đồng đội keo sơn ,gắn bó đã sưởi ấm lòng họ giữa rừng hoang mùa  đông sương muối giá rét, đã tiếp thêm sức mạnh cho họ vượt lên tất cả những khó khăn thiếu  thốn khắc nghiệt của chiến trường.Đây chính là công việc thực sự của người lính, và tình  đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao, trong công việc đánh giặc thực sự là thử  thách lớn nhất. Cũng chính ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ kề nhau trong tích tắc ấy thì tình  đồng chí mới thực sự thiêng liêng, cao đẹp. Ba câu thơ cuối như đã dựng lên bức tượng đài  sừng sững về tình đồng chí. Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên: Trong cảnh  “rừng hoang sương muối” ­ rừng mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời, nhưng  những người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Đặc biệt cho ta  nhiều ấn tượng là hình ảnh “đầu súng trăng treo”­ một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là điểm  nhấn của 3 phần, điểm sáng của toàn bài thơ. Hình ảnh thơ rất thực và cũng rất lãng mạn.  Hình ảnh này là có thật trong cảnh giác, được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích  chờ giặc. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng khuya, người lính còn có thêm một  người bạn là trăng. Trăng treo trên nền trời, nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp  thơ ở đây là nhịp 2­2 như gợi lên nhịp lắc của một cái gì chung chiêng lơ lửng trong bát ngát  chứ không phải là cột chặt, vừa thực vừa gợi lên nhiều liên tưởng phong phú: súng là hình  ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh  bình. Sự hoà nhịp giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí  của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: người lính cầm súng là để  bảo vệ cuộc sống hoà bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng là gần và xa, là chiến  sĩ và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng. Tất cả đã hoà quện, bổ sung cho nhau trong cuộc đời  người lính cách mạng. Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang  sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí thân thiết.Chỉ bằng 3 câu  thơ,Chính Hữu đã vẽ lên bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu  tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ, của tình đồng chí, đồng đội. 2.ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ – HUY CẬN Biển cả mênh mông luôn mang lại nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nếu Xuân Quỳnh cảm nhận những cơn sóng biển dạt dào luôn khao khát yêu thương thì Huy Cận-một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong cách Thơ Mới, lại nhìn về biển với sức sống mãnh liệt, là một bức tranh kì vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên.Nhắc đến đó ta nhớ ngay đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”-sáng tác 1958 khi ông tham gia chuyến đi Quảng Ninhvaf in trong tập ‘’Trời Mỗi Ngày Lại Sáng’’, thi nhân mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một đất nước đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống trong công cuộc xây dựng CNXH ở Miền Bắc. Ngay khi bước vào những con chữ thơ đầu của bài thơ, ta đã hoàn toàn đắm chìm trước   cảnh thiên nhiên trên biển lúc hoàng hôn cùng âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ   khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi: Mặt trời xuống biển như hòn lửa  
  7. Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng. Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!’’ Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy  hoàng, tráng lệ, đầy sức sống: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa” Huy Cận đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc biệt :đó là một điểm  nhìn di động được đặt trên con thuyền đang tiến bước ra khơi. Đặc biệt gây cho ta nhiều ấn  tượng là hình ảnh so sánh rất độc đáo và đặc sắc :’’Mặt trời xuống biển như hòn lửa.’’ Từ  hình ảnh so sánh ấy, ta thấy được một bức tranh tả thực vầng mặt trời đỏ rực từ từ chìm  xuống lòng biển,khép lại vòng tuần hoàn của một ngày.Qua đó gợi quang cảnh kỳ vĩ,tráng lệ  của bầu trời, mặt biển lúc hoàng hôn và bước đi của thời gian, đặc biệt thời gian này nó  không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá. Thi nhân còn sử  dụng hình ảnh nhân hóa: ‘’Sóng đã cài then đêm sập cửa’’ để tả những con sóng xô bờ như  những chiếc then cửa của vũ trụ đang dần chìm vào trạng thái nghỉ ngơi. Từ ấy gợi cho ta  thấy được cảm giác gần gũi, thân thương bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn  con người vậy. Xưa nay, thơ viết về cảnh hoàng hôn thường phảng phất một nỗi buồn như Thôi Hiệu viết trong bài “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” chẳng hạn: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Hay chính Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” trước CM cũng viết “ Lòng quê rờn rợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Nhưng ở hai dòng thơ đầu của bài thơ, ta lại thấy cảnh hoàng hôn hiện lên rất đẹp. Phải chăng lúc này Huy Cận đang vui, vui vì ông lại tìm được nguồn cảm hứng sáng tác sau 10 năm không thể cầm bút, vui vì ngư dân được làm chủ biển trời nên ông nhìn cảnh mới đẹp như vậy. Có lẽ là thế bởi Nguyễn Du cũng đã từng nói với chúng ta rằng “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh chỉ đẹp khi tâm trạng con người phơi phới niềm vui.Qua hai câu thơ đầu ta  còn có thể thấy, Huy Cận 
  8. là một người yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời như thế,ông mới có thể cảm nhận được sự  kì vĩ, đẹp đẽ cảnh biển lúc hoàng hôn.Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc  giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật đẹp, kỳ vĩ, tráng lệ như thần thoại đồng thời  gợi sự gần gũi như ngôi nhà thân quen, gợi sự bình yên đối với người dân chài. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như  chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu thơ khiến ta hình dung được cả một đoàn thuyền, chứ không phải là một con thuyền đơn  độc ra khơi. Phụ từ ‘’lại’’ diễn tả công việc lao động thường ngày,tạo được điểm nhấn ngữ  điệu và sức nặng cho câu thơ. Qua từ ngữ ấy, gợi cho ta thấy được thế chủ động con người  và cho biết công việc ra khơi vẫn lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen  thuộc của những người dân chài. Đồng thời miêu tả hành động đối lập giữa hoạt động của vũ  trụ và hoạt động của con người. Đặc biệt gây cho ta ấn tượng mạnh mẽ là hình ảnh  thơ :’’Câu hát căng buồm cùng gió khơi’’. Đó là một hình ảnh ẩn dụ hay, biến cái ảo thành cái  thực cho thấy được cái khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh  người lao động trên biển, làm chủ cuộc đời đang chinh phục biển khơi. Huy Cận đã cụ thể  hóa niềm vui phơi phới sự hòa hứng hăm hở của người lao động, từ đó gợi cho độc giả liên  tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền vượt trùng ra khơi. Với nghệ thuật chuyển đổi  cảm giác’’ câu hát căng buồm’’ gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm và trong  từng lời hát. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng    phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp  gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức  tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo  với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của  người dân chài. Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoach. Trong tâm trạng phấn chấn náo nức lúc ra khơi, những người dân chài đã cất cao tiếng hát: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Từ ngữ ‘’hát rằng’’ gợi lên niềm vui của những người dân chài hứa hẹn một chuyến ra khơi  bội thu.Huy Cận sử dụng thủ pháp liệt kê ‘’cá bạc, cá thu’’ mang đến âm hưởng ngợi ca, tự  hào trong câu hát về sự giàu có, phong phú của biển cả .Đặc biệt là hình ảnh so sánh đẹp "cá  thu biển Đông như đoàn thoi" Từ con cá bạc biển lặng hiện lên trong đêm như một khung  . cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự
  9. liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cảnh biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế đầy tinh tế của Huy Cận. Thi nhân còn sử dụng hình ảnh nhân hóa ‘’đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng’’ .Từ hình ảnh độc đáo đó cho ta thấy được không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của những con người lao động nơi đây . Hơn thế còn gợi ra hình ảnh những đàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm và những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đàn cá bơi lội dưới ánh trăng.Huy Cận sử dụng ngôi “ta” đầy tự hào, không còn cái “tôi” cô đơn nhỏ bé nữa. Bằng ngòi bút tài hoa  của mình kết hợp với những biện pháp tu từ đặc sắc, Huy Cận đã khắc họa thành công một  bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao  động và niềm hy vọng của những người dân chài khi ra khơi . Tiếp theo niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn vang lên khoẻ khoắn, ngợi ca  cảnh đánh cá trên biển dưới trời trăng sao. Tác giả sáng tạo hình ảnh đẹp:trên cái nền  tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:    Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng, Ra đậu dặm xa dò bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Cá nhụ cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe, Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long. Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao, Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận miêu tả cụ thể và rất sinh động: ‘’Thuyền ta lái gió với buồm trăng
  10. Lướt giữa mây cao với biển bằng, Ra đậu dặm xa dò bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng ’’ . Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng mở: chiều cao của gió trăng, chiều rộng của mặt biển và còn cả chiều sâu của lòng biển. Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với không gian cùng cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh ‘’lái gió với buồm trăng’’, ‘’lướt giữa mây cao với biển bằng’’ cho ta thấy được con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên và vũ trụ. Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương.Rõ ràng, con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian ,làm chủ thiên nhiên vậy. Hệ thống động từ được rải đều trong mỗi câu thơ ‘’lái’’, ‘’lướt’’, ‘’dò’’, ‘’dàn’’ cho ta thấy được hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hoà  nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con  người đối diện với trời rộng, sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ  thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao  động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên  nhiên. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự  giàu có phong phú và nâng tấm lòng hào phóng bao dung của biển cả: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé, Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên của các loài cá khác nhau:  “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé ­ cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Chim, thu, nhụ, đé là những  loài cá quý ở vùng biển nước ta, những loài cá mang lại giá trị kinh tế lớn cho ngành thuỷ sản  Việt Nam. Bằng thủ pháp liệt kê ấy, tác giả đã miêu tả được sự phong phú và giàu có biển cả  quê hương qua những loài cá quý hiếm.Cũng cho ta thấy sự phong phú,giàu có của biển cả  qua bài thơ ‘’Cành phong lan bể’’ của Chế Lan Viên:                                                                       ’’...   Cá vào hội xòe hoa mang áo đẹp  Cá nục, cá chuồn, cá chim, không phải chim đâu, cá hồng hồng sắc vẩy Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về Nơi nghìn thứ cá nức lòng sinh sôi vì thợ mỏ...’’ Thi nhân sử dụng khéo léo biện pháp tu từ ẩn dụ qua hình ảnh:’’ Cá song lấp lánh đuốc đen  hồng’’. Từ đó tả thực loài cá song thân dài trên vải có những chấm nhỏ màu đen hồng. Đồng  thời cũng gợi được hình ảnh về đàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm đã  tạo nên một khung cảnh tượng thật lộng lẫy và kỳ vĩ. Huy Cận còn sử dụng hình ảnh nhân  hóa :’’cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe’’ .Từ hình ảnh ấy miêu tả được động tác vẫy đuôi 
  11. của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu giỏi gợi ra một đêm trăng đẹp quyền ảo mà ánh  trăng đầy mặt biển khiến cho đoàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng. Đặc biệt khiến cho độc  giả ấn tượng là hình ảnh nhân hóa:’’ Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.’’ Đêm được miêu tả  như một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước,  hoà với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tà. Nhưng tưởng tượng của nhà thơ  được cắt nghĩa bằng bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một  hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa ánh sao trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao  lùa sóng nước. Đây còn là một hình ảnh lạ ­ một sáng tác nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận  khiến cho cảnh thiên nhiên sinh động. Huy Cận đã tả được nhịp điệu của những cánh sóng,  gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về biển như mang linh hồn của con người như một sinh  thể cuộn trào sức sống. Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp.Khi màn đêm bắt đầu buông  xuống, trời khuya dần, trăng bắt đầu lên, chúng ta có thể hình dung giữa không gian bao la óng  nước, giữa ánh sáng rất dịu dàng, mờ ảo, mơ hồ của ánh trăng trên biển, lúc ấy biển mang  màu sắc thật nên thơ. Nó lấp lánh, dịu dàng, thanh thoát. Vẻ đẹp đó hoà cùng với màu sắc của  muôn loài cá trên biển. Huy Cận sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc: lấp lánh, đen hồng,  vàng choé. Tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy chất lãng mạn. Tất cả làm  nên một bức tranh hoà nhịp kỳ diệu giữa thiên nhiên và con người lao động. Trước sự giàu có và phong phú của biển cả đã mở ra tâm trạng háo hức, vui tươi để  người dân chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát: “Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự buổi nào". Câu thơ :’’Ta hát bài ca gọi cá vào’’ gợi ta thấy sự thân thiết, niềm vui, phấn chấn yêu lao  động. Hình ảnh thơ :’’Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.’’ cho ta cảm nhận chất thơ bay bổng lãng  mạn, không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là trăng cao gõ. Trong đêm trăng  sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền tạo  nên nhịp điệu cho bài ca lao động. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp  thêm công việc đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng con người hoà đồng trong lao động. Và  như vậy, bức tranh không chỉ có màu sắc hình ảnh mà còn có cả âm thanh rộn rã. Hình ảnh so sánh:’’ biển như lòng mẹ’’. Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con  người tự bao đời. Từ đó thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài đối  biển cả quê hương. Ẩn sau khổ thơ ấy ta thấy được lòng biết ơn của những con người trước  ân tình quê hương đất nước. Huy Cận cũng từng nói về ân tình đó qua bài thơ ‘’Ta viết bài   thơ gọi biển về’’:   ‘’...   Ta, Biển sinh đôi tự thuở nào?  Sóng ngầm bao đợt nhói lòng đau
  12. Cái vui đầu sóng, buồn chân sóng Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au...’’ Hay là những câu thơ của Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương’’: “Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon than bạc trắng” Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:   “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẫy bạc đuôi vàng loé rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Huy Cận sử dụng hệ thống từ ngữ tượng hình: ‘’kéo xoăn tay’’,’’ lưới xếp’’, ‘’buồm lên’’ đã  đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể sinh động công việc kéo lưới của những ngư dân. Thi  nhân còn sử dụng hình ảnh ẩn dụ:’’ ta kéo xoăn tay chùm cá nặng’’ .Qua đó, những nét tạo  hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của những người dân  chài lưới trong lao động. Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu .Hình ảnh vẩy bạc, đuôi  vàng đầy ắp những khoang thuyền cho thấy được sự giàu có của biển cả quê hương và niềm  vui phơi phới của người lao động màu bạc của vảy cá màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt  trời như lóe rạng đông. Điều đó cho ta thấy được bút pháp sử dụng màu sắc đại tài của Huy  Cận. Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có, hào phóng của  thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường.  Nhưng có lẽ bài ca lao động ngân vang hào hùng nhất, hay nhất ở khổ thơ cuối cùng:   diễn tả cảnh đoàn thuyền thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ: ‘’Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.’’    Hình ảnh câu hát lại mở đầu cho khổ thơ: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Như vậy, câu  hát đã theo suốt cuộc hành trình của ngời dân chài. Câu hát mở đầu lúc họ bắt đầu lên đường  ra khơi, và khi trở về lại những câu hát ấy. Cấu trúc lặp: như một điệp khúc ngân nga, nhấn  mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương. Có lẽ câu hát lúc ra đi là câu hát lạc quan  tin tưởng khi trở về con thuyền sẽ đầy ắp cá tươi, còn câu hát lúc trở về là câu hát vui sướng  trước thành quả lao động sau một đêm vất vả. Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại ở 
  13. khổ cuối, ta còn thấy hình ảnh mặt trời cũng xuất hiện. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng  hôn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự  sống sinh sôi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc mà người dân chài  có được sau một chuyến hành trình rất vất vả và cực nhọc. Cũng  nói v   ề vẻ đẹp tráng lệ của    bình minh trên biển,bài thơ’’Bình minh trên biển’’ từng có đôi dòng thơ :    ‘’  Mặt   trời như cái mâm con                                                                                                      Nhô lên  trên biển hòn son đỏ lừ.’’ Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hình ảnh nhân hóa rất hay, rất hoành tráng và lãng mạn:  “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời.  Huy Cận đã lấy một sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của thiên  nhiên: “Mặt trời”. Từ hình ảnh nhân hoá, nói quá ấy gợi cho ta thấy sức dồi dào, hăng say  mạnh mẽ sau một đêm lao động vất vả của người dân chài. Nói như vậy là tác giả đã làm nổi  bật tư thế của những con người lao động, bởi nói đoàn thuyền nhưng thực chất là nói đến  người dân chài, đoàn thuyền ở đây là một hoán dụ để chỉ người ngư dân. Họ trở về trong một  tư thế sánh ngang với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng.  Chính những con người lao động ấy đã chiến thắng thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên.Khi  mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền trở về bến: “Mặt trời đội  biển nhô màu mới ­ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ta lại bắt gặp một hình ảnh mặt trời  khác, không phải của thiên nhiên mà của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Ý  thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca, bản anh hùng ca lao động. Đó là niềm vui  chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa cá, niềm vinh quang của người lao động rất bình  dị, nhỏ bé. Nó làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ của những con người lao động. Khổ thơ  mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động thể hiện niềm vui phơi phới của con người  khi làm chủ đất trời. 3.NÓI VỚI CON – Y PHƯƠNG “Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày”( Đỗ Trung Quân) Quê hương trong tim mỗi người đều có một vị trí quan trọng như thế để rồi cho đến hôm nay, ta vẫn không khỏi bồi hồi, xúc động trước tình yêu sâu đậm dành cho quê hương của nhà thơ Y Phương-một nhà thơ dân tộc Tày. Không ồn ào, không vồn vã, quê hương trong ông cũng giản dị và mộc mạc đến đẹp đẽ vô ngần. Nhà thơ đã gửi gắm tấm lòng son sắt của mình trong những dòng tâm sự với con. Với phong cách thơ chân thật,mạnh mẽ,phóng khoang,bình dị,bài thơ “Nói với con”-được sáng tác năm 1980,in trong tập’’Thơ Việt Nam 1945-1985’’ , đã thay mặt cho trái tim đang thổn thức ông thể hiện tình cảm thắm thiết cùng niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ của người đồng mình . 1.Quê hương, gia đình là cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.
  14. ‘’Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.’’ Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nói với con chính là cội nguồn  sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình  gia đình: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười. Đoạn thơ được viết theo nhịp 2/3 với cấu trúc sóng đôi, đối xứng, nhiều từ được láy lại đã tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”. Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.Lời thơ  gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc  thì sa vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha.Đọc những dòng thơ,ta có thể hình dung được  gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng  của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng.Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh  phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi  bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Ta  b   ắt gặp   sự vui mừng của cha mẹ khi nhìn ngắm đứa con tập đi trong bài thơ ‘’Được tin con tập   đi’’của Huy Cận:   ‘’Được tin con tập đi Cha mừng không ngủ được. Cha nằm đếm thầm thì’’ Từng bước chân con bước.  Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn  khôn từng ngày. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên ngực thì cha là cánh chim cho con bay  thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha cho con tinh thần ý 
  15. chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp. Tình cha mẹ – con cái thiêng liêng, sâu kín,  mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh  phúc bình dị, đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín  của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả. Ơ 4 câu thơ  đầu bằng hình ảnh cụ thể ,cách nói mộc mạc, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm  ấm, quấn quýt trong tình yêu thương trong sự nâng đón và mong chờ của cha mẹ. Ấy chính là  cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên của con. Cội nguồn sinh dưỡng của con được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình mà còn là  quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh thần  thứ hai, quê hương với cuộc sống lao động, đã nuôi dưỡng, sẻ chia giúp cho con trưởng  thành: Người đồng mình yêu lắm, con ơi! Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát. Với mỗi người, quê hương hiện lên với những nét khác nhau. Nếu như với Tế Hanh, quê hương là “con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre”, với Đỗ Trung Quân, “quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi” thì với Y Phương, quê hương chính là người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ  như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê  mình gần gũi, thân thương.’’Người đồng mình yêu lắm con ơi!’’ Cách gọi như thế, cùng với  hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến.Người đồng mình là những con  người đáng yêu, đáng quý:“Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động  cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa,nan tre  dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng  tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn.Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả  chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con  người quê hương trong cuộc sống lao động. Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu  không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng  vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao? Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn,cũng là quê hương với thiên  nhiên thơ mộng, nghĩa tình.Thiên nhiên hữu tình cũng là cội nguồn sinh dưỡng của con: “Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng.” Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những  hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú  hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng  thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan  của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. 
  16. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực – như một đặc điểm của rừng – và khi đặt trong  mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang  muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của  con người ở đó.Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính  là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường  cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con  người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã  che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.Bằng cách nhân hoá “rừng” và  “con đường” qua điệp từ“cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người  đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi  đầu cho hạnh phúc gia đình.Đó chính là ngày cưới của cha mẹ: “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.” Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê hương rồi đến ngày  cưới của cha mẹ.Người cha nói với con người ngày cưới của cha mẹ để cho con hiểu được  hạnh phúc của cha mẹ cũng bắt nguồn, đơm hoa kết trái từ chính mảnh đất nghèo mà giàu  tình nghĩa này .Chính bởi tình yêu của cha mẹ mẹ mới tạo nên cội nguồn sinh dưỡng gia đình  cho con. Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của  người cha tra gửi tới con. 2. Đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục a. Trước hết,Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người giàu ý chí nghị lực, biết lo toan và giàu mơ ước: Người đồng mình thươnglắm con ơi! Cao đo nỗi buồn
  17. Xa nuôi chi lớn.  Cụm từ ‘’người đồng mình’’ được lặp lại thật tha thiết từ đó khiến người con nói riêng và  độc giả nói chung khắc ghi sâu đậm hình ảnh con người quê hương.Nếu ở đầu bài thơ, nhà  thơ viết: “ yêu lắm con ơi” thể hiện tình yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ  mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con  ơi”­ bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương.  Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà  người đồng mình đã trải qua.Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy  cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.Cách sắp  xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý  chí con người càng mạnh mẽ. Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu  thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai  tốt đẹp của dân tộc.   ấy của người đồng mình gợi ta nhớ về những câu thơ:   Ý  chí   ‘’Đèo cao thì mặc đèo cao Tinh thần vượt núi còn cao hơn đèo’’ b. Không chỉ giàu ý chí nghị lực người đồng mình còn là những người dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn. Đến với những câu thơ tiếp theo chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Y Phương sử dụng trau chuốt phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh”,“thung  nghèo đói”.Hình ảnh thơ gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.Vận dụng thành ngữ  dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.Những câu thơ dài ngắn,  cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê  hương.Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn  mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí  và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê  hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau  ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua  tất cả. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng  mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh  đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước  niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người. c.Không những vậy, người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn  dân tộc: Người đồng mình thô sơ da thịt
  18. Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tựđục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục.  Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói  đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với  người miền núi.Y Phương sử dụng lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.Cụm  từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những  con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.Cụm từ “chẳng nhỏ  bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.Sự tương phản này đã  tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể  “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê  hương.Thi nhân sử dụng tinh tế lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc độc đáo, chứa đựng ý vị sâu  xa.Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ  truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:  nghị lực vượt qua khó khăn, chinh phục cuộc sống nơi núi rừng của người đồng mình.Người  đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho  quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong  tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.Câu thơ đã khái quát về tinh  thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt  đẹp của người đồng mình. Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm  tin hi vọng của người cha đặt vào đứa con yêu.Cha mong muốn con phải biết tự  hào,biết phát huy truyền thống,phẩm chát cao đẹp của quê hương khi con trên vạ  nẻo  đường đời: “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.” Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó  càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng  mình”. Nhưng hai tiếng“Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình –  quê hương để bước vào một trang đời mới.Trong hành trang của người con mang theo khi  “lên đường”có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền thống quê  hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của  cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ  vang quê hương.Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ  bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia  li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời  cha dặn. – Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với  quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa,  con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.Người cha muốn con hiểu  và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự  hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.Với giọng thơ 
  19. thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm cùng các hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát,  mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ,đoạn thơ chứa chan ý nghĩa,mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc.  Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành  trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ – bài học về  niềm tin,nghị lực,ý chí vươn lên. 4.SANG THU – HỮU THỈNH ‘’Nõn nà sương ngọc quanh thèm đậu Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì ...Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu..’’ (Thu-Xuân Diệu) Hạ đi ,thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi reo rắc trong lòng Xuân Diệu cùng những thi nhân nói riêng và con người nói chung một cảm xúc khó tả. Hữu thỉnh cũng vậy ,ông đã chạm khắc Tiếng Thơ của mình vào thế giới Thi ca bốn mùa nhiều dự bị. Năm 1977 ,người Chiến Sĩ ấy khi đứng trước điểm cuối của tuổi trẻ đã không ngần ngại sử dụng trau chuốt giọng thơ có đặc điểm riêng biệt ,chân thực, tinh tế trong cảm xúc cùng tài hoa gây cảm tình lớn lao cho bạn đọc, để nhào nặn cho ra bài thơ ‘’sang thu’’. Thi phẩm thể hiện rõ nét về cảm nhận tinh tế của Hữu thỉnh về những biển chuyến biến chuyển của thiên nhiên ở giây phút giao mùa từ hạ sang thu. 1.Những tín hiệu ban đầu khi sang thu Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả những tín hiệu đầu tiên của thời khắc giao mùa. Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị: Bỗng nhận ra hương ổi: Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu bằng một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se”. Đó là “hương ổi” – mùi hương đặc sản của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thường hiện ra qua các hình ảnh ước lệ như “ngô đồng”, “rặng liễu”, “lá vàng mơ phai”, “hoa cúc’’ thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hỉnh ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. “Hương ổi” gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm
  20. đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.”. Không chỉ có hương ổi, cái khoảnh khắc thu sang còn báo hiệu bằng một tín hiệu rất đặc trưng: Gió se. Gió se là cái gió se lạnh,gió heo may. Không oi nồng như cái gió của mùa hè cũng không rét cắt da cắt thịt như cái gió bấc của mùa đông. Gió se chỉ hơi lạnh nhưng cũng đủ để người ta cảm nhận được, đủ để làm cho trời thu, khí thu thêm mát mẻ. Gió se đến tức là thu đã về. Nó chính là sứ giả của mùa thu giống như chim én là sứ giả của mùa xuân vậy. Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đủ tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lời thơ lại càng lung linh huyền ảo. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ”. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng manh, mềm mại, giăng mắc màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu thêm mát mẻ và cảnh thu thêm thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ láy “chùng chình”. Phép tu từ ấy khiến cho sương thu như chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều đã hiện diện. Có “hươngổi”, “gió se” và sương thu. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Phải chăng thu đến nhẹ nhàng quá và bình yên quá nên nhà thơ – một con người đã từng trải qua biết bao mùa thu trong bom đạn của chiến tranh không thể tin đó là sự thật. Câu thơ như một tiếng reo vui của Hữu Thỉnh khi mùa thu đã về. 2.Bức tranh chớm thu hiện ra rõ nét Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn như hiện rõ ra trước mắt đọc giả một bức tranh chớm thu thật đẹp: Sông được lúc dềnhdàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào những ngày giao mùa. Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ mà không chảy xiết như những ngày mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim trời bắt đầu di trú về phương Nam.Câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh cánh chim trong ‘’Chiều hôm nhớ nhà’’ của Bà Huyện Thanh Quan: ‘’Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương xa khách bước dồn’’ Từ hình ảnh ‘’dòng sông’’ và ‘’chim’’ khiến không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và
nguon tai.lieu . vn