Xem mẫu
- NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TẠI VIỆT NAM
ThS. Trần Thị Thuỷ Anh
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt
Nghiên cứu trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của tài chính toàn diện
(TCTD) từ góc độ các nhóm lợi ích liên quan. Đối với cá nhân, hộ gia đình sử dụng (DVTC), các
rào cản bao gồm chi phí DVTC, hạn chế về kiến thức tài chính, rào cản tâm lý nợ, và thủ tục
thiếu linh hoạt của DVTC. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, DVTC trở nên thiếu hấp dẫn do
các trở ngại địa lý và quy trình thủ tục pháp lý. Đối với các bên cung cấp DVTC, công nghệ
trong tài chính ngân hàng và khung pháp lý là hai yếu tố ảnh hưởng chính. Vì vậy, điều quan
trọng nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển TCTD là xây dựng một chiến lược tổng quan với sự
chủ động lãnh đạo của Nhà Nước thông qua các chính sách liên quan tới TCTD. Đồng thời,
khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp DVTC trong việc thúc đẩy TCTD, đặc biệt đối
với những đối tượng khách hàng bị ngoại trừ tài chính do những yếu tố nêu trên.
Từ khoá: Tài chính toàn diện, yếu tố ảnh hưởng.
1. Giới thiệu
Một hệ thống TCTD với khả năng cung cấp và phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội
đang trở thành mối quan tâm hàng đầu ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nền kinh tế mới nổi
trong đó có Việt Nam. Điều này chủ yếu xuất phát từ những lợi ích quan trọng của TCTD lên
toàn bộ nền kinh tế nói chung mà cụ thể là thúc đẩy kinh tế và xóa đói giảm nghèo trên cơ sở của
việc thúc đẩy các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình tham gia hệ thống tài chính quốc gia
(Allen et.al., 2012). Là một trong nhóm 25 quốc gia được ưu tiên tập trung phát triển toàn diện tài
chính theo Sáng kiến Phổ cập tiếp cận Tài chính (UFA) đến năm 2020, Việt Nam đã có những
bước tiến quan trọng nhằm phát triển hệ thống TCTD một cách tổng thể (Khuyen & Phuong,
2018). Nền móng cho sự phát triển này có thể kể đến những nỗ lực hợp tác giữa Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới trong việc xây dựng chiến lược quốc gia về TCTD kể từ
năm 2016.
Tuy nhiên, theo Allen et.al. (2012) để đảm bảo thành công một cách bền vững, cần hiểu rõ
những yếu tố tác động hoạt động của hệ thống TCTD nói chung cũng như những đối tượng cụ thể
tham gia vào hệ thống đó. Trên thực tế, dù đã có nhiều nghiên cứu về hệ thống TCTD, vẫn chưa
có nhiều mối quan tâm đến các đối tượng có lợi ích gắn với hệ thống này. Nhằm bổ sung những
hạn chế hiện tại trong hiểu biết về TCTD và đóng góp vào sự phát triển của TCTD tại Việt Nam,
bài viết này xin đưa ra những phân tích chuyên sâu về các tác nhân ảnh hưởng đến hệ thống
TCTD dưới góc nhìn tập trung vào các nhóm lợi ích liên quan (Stakeholders), cụ thể là từ cả
người sử dụng DVTC lẫn bên cung cấp dịch vụ.
Bài viết tập trung vào 2 phần, bắt đầu bằng việc thảo luận từng nhóm đối tượng sẽ được
phân tích với bối cảnh gắn với kinh tế Việt Nam cũng như so sánh tương quan với các quốc gia
khác. Dựa vào đó, phần thứ 2 sẽ tóm tắt lại những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp
tương ứng nhằm hỗ trợ phát triển TCTD ở Việt Nam.
95
- 2. Các tác nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của TCTD
2.1. Phía người sử dụng dịch vụ
Đã có rất nhiều nghiên cứu về yếu tố thúc đẩy cũng như cản trở việc sử dụng DVTC cũng
như tình trạng loại trừ tài chính. Trong đó, cần phải nhấn mạnh rằng mỗi đối tượng người sử
dụng dịch vụ lại có nhu cầu và đặc điểm khác nhau dẫn đến nguyên nhân bị loại trừ tài chính
khác nhau. Theo phân loại của Soriano (2017), đối tượng người sử dụng dịch vụ có thể được chia
thành 2 nhóm chính là nhóm cá nhân/hộ gia đình và nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần phân
tích dưới đây sẽ thảo luận cả 2 nhóm này để xác định các yếu tố ảnh hưởng
2.1.1. Nhóm người dùng cá nhân và hộ gia đình
Kiến thức hạn chế về tài chính: Nghiên cứu của Morgan & Trinh (2018) đã chỉ ra rằng một
nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng loại trừ tài chính xảy ra đối với một bộ phận lớn người dùng
tài chính là cá nhân và hộ gia đình ở những nước đang phát triển tới từ rào cản kiến thức tài chính
cũng như những thủ tục rườm rà liên quan đến thủ tục cho vay. Morgan & Trinh (2018) cũng
nhấn mạnh rằng chính những hạn chế về hiểu biết của đại đa số những người thuộc nhóm thu
nhập thấp trong xã hội làm họ khó tiếp cận những khoản vay dù đôi khi họ có đủ điều kiện cho
những khoản vay đó. Điều này dẫn đến sự tồn tại của một nghịch lý trong thị trường tài chính:
trong khi ngân hàng có nhu cầu cung cấp DVTC không đạt được mục tiêu thì người dân có nhu
cầu (có tài chính cho vay hoặc có nhu cầu vay) cũng không thể tham gia thị trường tài chính.
Cũng cần phải thấy rằng khi người dân hạn chế về hiểu biết đối với các DVTC, luôn có những
niềm tin hoặc nhận thức sai lệch về các sản phẩm tài chính và do đó những rào cản tâm lý lại
càng trở nên mạnh mẽ. Một ví dụ điển hình là quan điểm về các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
hoặc phi nhân thọ ở những người ít tìm hiểu về các sản phẩm này là thường cảm thấy dễ bị lừa
tham gia dịch vụ (Ibor, Offiong & Mendie, 2015). Điều này làm gia tăng nỗ lực cần thiết để xây
dựng hệ thống TCTD hiệu quả.
Rào cản chi phí tài chính: Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ loại trừ tài chính là
chi phí của các DVTC. Theo Pallavi and Bharti (2013), người dân ở các vùng nông thôn thường
miễn cưỡng tham gia các DVTC nhưng những rào cản liên quan đến chi phí bao gồm yêu cầu
tiền gửi tối thiểu cao, chi phí cố định của thẻ tín dụng hay phí khoản vay khiến cho nhiều người
ngại phải cam kết lâu dài với các DVTC. Đó là chưa kể đến các điều kiện còn kém hấp dẫn của
các dịch vụ cho vay tiêu dùng, DVTC mà phần lớn người sử dụng là cá nhân và các hộ gia đình
đang cần thiết và quan tâm ngày một nhiều hơn. Nguyên nhân chính là tại Việt Nam, lãi suất cho
vay tiêu dùng còn rất cao bởi mức độ rủi ro lớn và lạm phát cao. Trung bình, các công ty tài chính
đang áp lãi suất vay tiêu dùng trong khoảng 20% đến 50% khoản vay mỗi năm, cao gấp đôi đến 5
lần so với vay thương mại (Phan, 2018). Cũng cần phải nói rằng việc lãi cho vay tiêu dùng cao
hơn nhiều lần so với lãi suất cơ bản là một điều bình thường. Ví dụ như lãi suất vay tiêu dùng của
Mỹ lên đến 36% trong khi EU là 25%. Tuy nhiên, dải lãi suất đến mức 50% ở Việt Nam thực sự
gây ra một cản trở lớn đối với những cá nhân và hộ gia đình có ý định tham gia các chương trình
vay này. Ở một thống kê khác, so với các nước trong khu vực, chỉ số cho vay tiêu dùng của Việt
Nam thấp hơn đáng kể bất chấp việc chỉ số về thu nhập hộ gia đình và chi tiêu tùy ý ở mức cao
nhất (Phan, 2018).
96
- Hình 1: So sánh chỉ số tiêu dùng và thu nhập các nước ASEAN, (Nguồn: Phan, 2018)
Rào cản tâm lý nợ: Một yếu tố khác ảnh hưởng đến TCTD là rào cản tâm lý. Cụ thể thì yếu
tố này miêu tả tâm lý là không muốn đi vay để tiêu dùng vì phải trải qua các thủ tục và mang tâm
lý mắc nợ ngân hàng (Man, 2018). Do đó họ có xu hướng đi vay người thân, bạn bè hoặc các hệ
thống tài chính phi chính thức chứ không tham gia vào các DVTC chính thức. Thống kê của
World Bank (2014) ước tính Việt Nam có đến 65% người gửi hoặc vay tiền từ các hệ thống
không chính thức, trong khi phần lớn người dân sử dụng các dịch vụ thanh toán tiện ích (điện,
nước, tiền dịch vụ) bằng tiền mặt. Đây có thể coi là một thách thức không nhỏ cho hệ thống
TCTD tại những nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thủ tục cho vay thiếu linh hoạt: Đối với nhóm cá nhân và hộ gia đình là đối tượng chính
của loại trừ tài chính, có một vấn đề lớn khi tiếp cận các khoản vay là thủ tục cho vay rườm rà,
thiếu linh hoạt còn gây ra những hạn chế lớn (Rahman, Zainuddin và Zaini, 2015).Về cơ bản, thủ
tục vay đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho bên vay cũng như đảm
bảo các cam kết và trách nhiệm của bên đi vay. Tuy nhiên, do đặc thù của các cá nhân và hộ gia
đình có thu nhập thấp là nguồn thu nhập thiếu ổn định, thậm chí không có đảm bảo cho nguồn
tiền thu nhập do phần lớn làm lao động tự do, việc không đáp ứng được các tiêu chí đề xuất bởi
ngân hàng và trở thành đối tượng của giảm trừ tài chính diễn ra rất thường xuyên. Việc thiếu các
chính sách làm đơn giản hóa thủ tục vay mà vẫn đảm bảo rủi ro tài chính ở mức chấp nhận được
là một vấn đề cần được lưu ý nhiều hơn.
2.1.2. Nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trở ngại địa lý: Khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tần suất và nhu cầu
vay cao, do đó một nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hệ thống TCTD khi cung cấp DVTC
cho đối tượng khách hàng này chính là tính thuận tiện của nhà cung cấp (Han & Melecky, 2013).
Tuy nhiên, chi phí cao của việc duy trì hoạt động tại các vùng quê và miền núi làm cho mật độ
của các trụ sở cung cấp tài chính ở các khu vực này còn rất thấp so với khu vực thành phố
(Jimenez, 2014, trích dẫn bởi Nguyễn và Nguyễn, n.d). Trong khi đó, một số lượng lớn các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực thủ công và nông nghiệp như tại Việt Nam lại tập trung ở
các vùng nông thôn. Dù đã có những ngân hàng đặc thù phục vụ cho nhóm các doanh nghiệp này
mà tiêu biểu là Ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, khoảng cách địa lý
vẫn là một trở ngại lớn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thực hiện các giao
dịch thường xuyên.
97
- Quy trình thủ tục pháp lý: Tương tự nhóm người dùng cá nhân và hộ gia đình, các giấy tờ
thủ tục phức tạp liên quan đến vay vốn cho doanh nghiệp cũng góp phần làm gia tăng sự loại trừ
tài chính đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả khi những thủ tục được đơn giản hóa,
những quy trình bắt buộc như yêu cầu về thế chấp và quá trình thẩm định tài sản vẫn làm cho hệ
thống tài chính chính thức kém hấp dẫn hơn rất nhiều so với với hệ thống phi chính thức, nơi có
tính tiếp cận và tính có sẵn cao hơn các ngân hàng nhiều lần (Han & Melecky, 2013). Khi mà nhu
cầu tài chính ngắn hạn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cao, việc sử dụng hệ thống tài chính phi
chính thức do đó vẫn được ưa chuộng hơn, bất kể chi phí cao hơn nhiều so với niêm yết trung
bình của hệ thống ngân hàng
2.2. Phía cung cấp dịch vụ
Theo nghiên cứu của Kabakova và Plaksenkov (2018), yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng
đến phía cung cấp dịch vụ trong TCTD chính là công nghệ và khung pháp lý hỗ trợ cho triển khai
TCTD trên quy mô lớn. Những yếu tố này cũng nhận được sự ủng hộ từ báo cáo của Jimenez
(2014, trích dẫn bởi Nguyễn và Nguyễn, n.d), trong đó tác giả nhấn mạnh rằng các mô hình ứng
dụng công nghệ là cần thiết để nâng cao khả năng các nhà cung cấp DVTC (bao gồm các ngân
hàng và quỹ tín dụng) có thể phủ sóng hoạt động và tiếp cận các đối tượng có nhu cầu tài chính
cơ bản một cách cấp thiết nhất. Những mô hình ứng dụng công nghệ này bao gồm ngân hàng di
động và thanh toán di động (e-banking), mô hình đại lý ngân hàng, công nghệ xác thực nhân thân
và báo cáo tín dụng. Bên cạnh đó, một khung pháp lý sẽ không chỉ hướng dẫn và tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy nhà cung cấp DVTC tham gia vào thực thi chiến lược TCTD mà còn tăng
cường năng lực quản lý giám sát cho các cơ quan quản lý.
2.2.1. Yếu tố ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ
Ứng dụng công nghệ trong giải quyết thách thức của khoảng cách địa lý: Sự phát triển của
công nghệ di động và công nghệ thanh toán đang đóng một vai trò thiết yếu trong kỷ nguyên số.
Với sự ra đời của ngân hàng di động nhờ sự hợp tác giữa các ngân hàng và công ty viễn thông mà
hoạt động cung cấp tài chính trở nên thuận tiện hơn gấp nhiều lần. Điều này mở ra triển vọng cho
các ngân hàng và các quỹ tín dụng trong việc tiếp cận người dân có nhu cầu tài chính ở những
vùng miền xa xôi, đặc biệt khi những người này lại thường có tỷ lệ thiếu thốn tài chính lớn nhất
(Soriano, 2017). Trên thực tế, việc mở cửa hoặc duy trì hoạt động của các ngân hàng ở những
khu vực nông thôn và miền núi luôn là khó khăn cho bất kỳ ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nào
với mật độ dân số thưa và địa hình không thuận tiện cho việc đi lại của người dân (Clamara, Pena
& Tuesta, 2014). Đây cũng là một nguyên nhân chính cho việc các kênh cung cấp DVTC chính
thức không thể cạnh tranh được với các kênh cung cấp tài chính phi chính thức, bất chấp rủi ro và
lãi suất thấp hơn. Với công nghệ mới trong ngân hàng di động, các giao dịch có thể thực hiện trực
tiếp thông qua mạng di động dựa vào hệ thống PIN. Điều này góp phần cải thiện khả năng tiếp
cận của ngân hàng đối với những đối tượng khách hàng này trong khi chi phí quản lý, tốc độ xử
lý và chất lượng dịch vụ đều được cải thiện. Tất nhiên, ưu điểm này của ngân hàng di động cũng
như các giải pháp thanh toán di động đi kèm những rủi ro nhất định cho cả nhà cung cấp lẫn
người sử dụng DVTC mà điển hình là vấn đề bảo mật (Soriano, 2017). Đó là chưa kể những rào
cản về kiến thức tài chính của những đối tượng mà hệ thống TCTD nhắm đến. Tuy nhiên tiềm
năng khổng lồ dành cho chính những nhà cung cấp DVTC vẫn đủ sức hấp dẫn để khuyến khích
những tổ chức này tham gia tích cực hơn vào chương trình phát triển hệ thống TCTD. Trên thực
tế ở Việt Nam có đến một nửa dân số chưa có tài khoản ngân hàng (Vietnambiz, 2018) bất chấp
sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ ngân hàng những năm gần đây. Trong đó, dù mạng lưới di
động đã phủ sóng đên 95% lãnh thổ Việt Nam, tỉ lệ sử dung thanh toán di động mới chỉ ở mức
11%. Nói cách khác, dù công nghệ phát triển và hỗ trợ rất nhiều cho ngành tài chính ngân hàng,
việc ứng dụng và khuyến khích người dân tham gia vào quá trình hiện đại hóa ngân hàng này vẫn
còn là một thách thức đối với các nhà cung cấp DVTC.
98
- Xác thực nhân thân và báo cáo tín dụng: Nếu phải kể đến một sự tiến bộ đáng kể mà công
nghệ đem lại cho tiến trình phát triển TCTD thì hẳn sẽ là công nghệ xác thực nhân thân và báo
cáo tín dụng. Theo báo cáo của Kabakova và Plaksenkov (2018), một nguyên nhân hàng đầu dẫn
đến sự loại trừ tài chính là tình trạng thiếu hụt thông tin của người đi vay mà cụ thể là độ tin cậy
của thông tin nhân thân cũng như lịch sử tín dụng. Tình trạng này chủ yếu bị gây ra bởi mô hình
quản lý thông tin phi tập trung và phân mảnh giữa các tổ chức tài chính ở những nước mà hệ
thống tài chính còn yếu kém và thiếu đồng bộ. Hệ quả là bên cung cấp tài chính thường phải yêu
cầu tăng cường giá trị thế chấp, tăng cường thẩm định hoặc từ chối cho vay để giảm thiểu rủi ro
tín dụng (Kabakova & Plaksenkov, 2018). Điều này cũng có nghĩa một số lượng lớn người dùng
có nhu cầu tài chính không thể tiếp cận tài chính bởi sự yếu kém của hệ thống quản lý thông tin.
Theo Rahman, Zainuddin và Zaini (2015), sự tiến bộ của công nghệ xác nhận nhân thân cùng hệ
thống lưu trữ, tra cứu và chia sẻ thông tin nhân thân gắn với lịch sử tín dụng giúp thúc đẩy các tổ
chức tín dụng không còn e ngại cung cấp DVTC cho người sử dụng mới cũng như người lao
động tự do không có lịch sử bảng lương cụ thể. Những kết quả tích cực liên quan đến vấn đề này
đã được kiểm chứng ở rất nhiều quốc gia khác, ví dụ như Ấn Độ với hệ thống sinh trắc học được
liên kết với hồ sơ tín dụng của từng cá nhân. Ở Việt Nam, sự thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng và
hệ thống quản lý nhân thân lỗi thời vẫn chưa cho phép xây dựng một mô hình quản lý tương tự.
2.2.2. Yếu tố ảnh hưởng của khung pháp lý
Theo Rahman, Zainuddin & Zaini (2015) khung pháp lý đặc biệt quan trọng đối với việc
thực thi giám sát quản lý và hỗ trợ các tổ chức tài chính tham gia hệ thống TCTD. Một là chính
những ứng dụng công nghệ trong tài chính ngân hàng mà tiêu biểu là ngân hàng di động chứa
đựng nhiều rủi ro tín dụng và bảo mật thông tin, việc có một khung pháp lý hướng dẫn cụ thể là
cấp thiết để các tổ chức tài chính tự tin trong việc triển khai công nghệ và đóng góp nhiều hơn
nữa đến tiến bộ trong TCTD. Trong đó, khung pháp lý cần tính đến tất cả các giai đoạn, quy trình
và thủ tục mà người cung cấp dịch vụ cũng như người sử dụng DVTC phải trải qua. Một ví dụ
điển hình là xây dựng quy trình nhận biết khách hàng để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận khách
hàng mới (Soriano, 2017).
3. Đề xuất cho phát triển TCTD tại Việt Nam
Tại Việt Nam khái niệm TCTD còn khá mới mẻ và ở giai đoạn hiện tại Chính phủ mới chỉ
ưu tiên phát triển một chiến lược tổng thể làm nền móng. Tuy nhiên đã có những chính sách
nhằm thúc đẩy các hoạt động thuộc phạm vi của TCTD mà cụ thể là Chính sách hỗ trợ tín dụng
phát triển nông thôn từ năm 2010 hay Đề án xây dựng hệ thống tài chính vi mô Việt Nam từ năm
2011. Gần nhất có thể kể đến Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh
tế với mục tiêu gia tăng khả năng tiếp cận của dịch vụ ngân hàng và chất lượng dịch vụ ở những
vùng trọng điểm (Le & Phuong, 2018).
Có thể thấy Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực phát triển một khung pháp lý gắn với những
mục tiêu cụ thể trong việc giảm thiểu tình trạng giảm trừ tài chính. Khung pháp lý này được đặt
trong một chiến lược tổng quan tuân theo định hướng phát triển TCTD toàn cầu sẽ đảm bảo Việt
Nam có một môi trường lý tưởng cho tương lai bền vững của TCTD. Tuy nhiên, Le & Phuong,
2018 đề xuất rằng khung pháp lý và môi trường chỉ là một trong bốn trụ cột của phát triển bền
vững, bên cạnh một định chế TCTD, kiến thức tài chính chính xác và khách quan cho người dân
thuộc các tầng lớp cùng các kênh phân phối và sản phẩm TCTD. Do đó, để giải quyết các vấn đề
còn tồn tại trong phạm vi của TCTD, Việt Nam cần học hỏi thêm từ các nước trong khu vực đã
thành công trong việc tăng cường củng cố TCTD. Một ví dụ điển hình là Indonesia với chiến
lược được xây quanh 6 trụ cột: nâng cao vai trò Chính phủ trong cung cấp tài chính công trực
tiếp; hoạch định bản đồ tài chính để khoanh vùng và xếp hạng các đối tượng khách hàng tài chính
99
- theo mức độ; xây dựng cơ sở pháp lý cho các sản phẩm DVTC di động; mở rộng phạm vi DVTC
bằng các kênh trung gian; nâng cao kiến thức và nhận thức người dân; và cải tiến chính sách bảo
vệ quyền lợi người sử dụng DVTC (Widyaningrum, 2015).
Bên cạnh một chiến lược phát triển tổng quan, khung pháp lý cụ thể dành cho các sản phẩm
và DVTC mới là điều Chính phủ cần nhanh chóng xây dựng và thể hiện vai trò tiên phong trong
phát triển TCTD. Cần phải thấy rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho Việt Nam
những thách thức nhưng cũng là những cơ hội vô cùng lớn khi ứng dụng công nghệ kỹ thuật cho
phép giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết trong TCTD, ví dụ như khoảng cách địa lý từ người dân
vùng nông thôn đến các nhà cung cấp tài chính. Tuy nhiên, những ứng dụng này cần có một
khung pháp lý cụ thể để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là người sử dụng vốn
có kiến thức hạn chế.
Đối với các tổ chức tín dụng, việc chủ động thiết kế các sản phẩm tài chính mới với chi phí
hợp lý cùng thủ tục đơn giản sẽ là trọng tâm để tiếp cận người sử dụng ở các khu vực trọng điểm
mà nhà nước khoanh vùng. Bên cạnh đó việc phối hợp với nhà nước để phổ cập kiến thức tài
chính cho người dân cũng là một ưu tiên cần thiết để khuyến khích và gia tăng số người sử dụng
DVTC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen, F., Demirgüc-Kunt, A., Klapper, L. & Peria, M. (2012). ‘The Foundations of
Financial Inclusion: Understanding Ownership and Use of Formal Accounts’. World Bank Policy
Research Paper 6290, World Bank.
2. Clamara, N., Pena, X. & Tuesta, D. (2014). ‘Factors that Matter for Financial Inclusion:
Evidence from Peru’. BBVA Research. Available at:
https://www.bbvaresearch.com/KETD/fbin/mult/WP_1409_tcm348-426338.pdf]
3. Han, R. & Melecky, M. (2013). ‘Financial Inclusion for Financial Stability: Access to
Bank Deposits and the Growth of Deposits in the Global Financial Crisis’. World Bank Policy
Research Working Paper 6577, World Bank.
4. Ibor, B., Offiong, A. & Mendie, E. (2015). ‘Financial inclusion and performance of
micro, small and medium scale enterprises in nigeria’, International journal of research, vol. 5,
no. 3, pp. 104-121
5. Jimenez, E. (2014). ‘Role of smart policies and regulation in financial inclusion’,
Alliance for Financial Inclusion
6. Kabakova, O. & Plaksenkov, E. (2018). ‘Analysis of factors affecting financial inclusion:
Ecosystem view’, Journal of Business Research, volume 89, August 2018, pp. 198-205
7. Le & Phuong, 2018. ‘Tiếp cận TCTD của các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối
với Việt Nam’, Available at:
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?leftWidth=20%25&
showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV327375&rightWidth=0%25¢erWi
dth=80%25&_afrLoop=6943521476166577#%40%3F_afrLoop%3D6943521476166577%26cen
terWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV327375%26leftWidth%3D20%2525%26rightW
idth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-
state%3D19vvcfsbw9_9
8. Man, N. (2018). Thách thức tín dụng tiêu dùng. TinNhanhChungKhoan. Available at:
https://tinnhanhchungkhoan.vn/tu-van-tai-chinh/thach-thuc-tin-dung-tieu-dung-245194.html
9. Morgan, P. & Trinh, L. (2018). ‘Determinants and impacts of financial literacy in
Cambodia & Viet Nam’, ADB Institute. Available at:
https://www.bot.or.th/Thai/AboutBOT/Activities/event/Documents/ADBI_peter_m.pdf
100
- 10. Nguyen, P.L. & Nguyen. M.H. (n.d.) Chuyên đề 32: Một số vấn đề chung về TCTD.
Vietnam Ministry of Finance. Available at: http://daotaomof.vn/bvct/chi-tiet/377/chuyen-de-32-
mot-so-van-de-chung-ve-tai-chinh-toan-dien.html.
11. Pallavi, G. & Bharti, S. (2013). ‘Role of Literacy Level in Financial Inclusion in India:
Empirical Evidence’. Journal of Economics, Business and Management, vol. 1, no. 3, pp.
272-276.
12. Phan V. (2018). Tiềm năng của thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam. Available
at: http://ndh.vn/tiem-nang-cua-thi-truong-cho-vay-tieu-dung-tai-viet-nam-
2018091203554197p4c149.news.
13. Rahman, F. & Zainuddin, W. & Zaini, M. (2015). ‘Advancing Inclusive Financial
System in the next decade: Advancing Inclusive Financial system in the next decade in
Malaysia.’ The SEACEN centre 278, pp. 91-112.
14. Soriano, M. (2017). ‘Factors driving financial inclusion and financial performance in
Fintech new ventures: An empirical study’, Institutional Knowledge at Singapore Management
University. Available at:
https://ink.library.smu.edu.sg/cgi/viewcontent.cgi?article=1147&context=etd_coll
15. The World Bank (2014). ‘Global Financial Development report 2014: Financial
Inclusion’. The World Bank, USA: Washington DC.
16. Vietnambiz (2017). ‘Mobile banking sẽ vượt mức 142 tỷ USD vào năm 2019’.
Available at: https://vietnambiz.vn/mobile-banking-se-vuot-muc-142-ty-usd-vao-nam-2019-
36617.htm.
17. Vietnambiz (2018). ‘Một nửa dân số Việt Nam chưa có tài khoản tại ngân hàng’.
Available at: https://vietnambiz.vn/mot-nua-dan-so-viet-nam-chua-co-tai-khoan-tai-ngan-hang-
43678.htm.
18. Widyaningrum, W. (2015). ‘Advancing Inclusive Financial System in the next decade:
Strategy of Financial Inclusion - The case of Indonesia’. The SEACEN centre, 278, pp. 63-90.
101
nguon tai.lieu . vn