- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế: Phần 1 - TS. Đinh Thị Thu Thủy (Chủ biên)
Xem mẫu
- TT TT-TV * ĐHTM
330.109
LIC
Jng đại học thương mại
ĐINH THỊ THU THUỶ (chủ biên)
2003
GT.0001262
CAC HOC THUYET KINH TE
GT.0001262
Mil NHA XUẤT BẢN THỐNG KÊ
- TRƯỜNG ĐAI HOC THƯƠNG MAI
LỊCH Sơ
CÁC HỌC THUYẾT KINH TÊ
Hà Nôi - 2003
- LICH SỬ CÁC HOC THUYẾT KINH TÊ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
CÁT VÃN THÀNH
Biên tập:
ĐỖ ĐÌNH TỨ
Trình bày và sửa bản in:
NGÔ MỸ LỆ
In 1.000 cuốn, khổ 14,5 X 20,5 cm tại Xưởng in Nhà
xuất bản Thốhg kê. Giấy phép xuất bản số: 33-
133/XB/VHTT do Cục xuất bản cấp ngày 13-2-2004.
In xong và-nộp lưu chiểu quý I năm 2004.
- LỜI NÓI ĐẦU
Nghiên cứu. tìm hiểu các hệ thống tư tưởng, trường
phái kinh tế trong quá trình phát sinh và phát triển cúà kinh
tế thị trường có ý nghĩa quan trọng. Việc làm rõ nội dung,
đặc điểm, hoàn cảnh ra đời. thành tựu và hạn chế cúa các
học thuyết kinh tế gắn với kinh tê' thị trường góp phần tạo
nền kiến thức, tạo cơ sở để đi sâu nghiên cứu các môn kinh
tế ngành, tạo khả năng tư duy độc lập sáng tạo trong hoạt
động kinh tế hiện nay.
Để có thêm tài liệu tham khảo phục vụ học tập nghiên
cứu và giảng dạy môn học, chúng tôi biên soạn cuốn “Lịch
sử các học thuyết kinh tế” nhằm giới thiệu những quan
điểm, những, lý thuyết kinh tê' cơ bản của các trường phái
kinh tê' qua các giai đoạn phát triển lịch sử.
Cuốn sách được xây dựng dựa theo chương trình môn
Lịch sử các học thuyết kinh tế dùng cho sinh viên khối
ngành kinh tế, đồng thời có kế thừa một sô' nội dung của
giáo trình môn học mà các trường đại học đang lưu hành,
sử dụng.
Tham gia biên soạn cuốn sách là tập thể tác giả:
TS. Đinh Thị Thủy (chủ biên)
Ths. Phạm Văn Cần
3
- Ths. Trần Thị Thanh Hương
Ths. Nguyễn Thị Bích Hường
Ths. Võ Tá Tri
Chúng tôi đã cố gắng cập nhật thông tin. đi sâu. mờ
rộng để làm rõ nội dung của môn học. tuy nhiên, không thế
tránh khỏi nhũng hạn chế. Tập thể tác giả mong nhận dược
sự góp ý của bạn đọc để lần tái bản sau cuốn Síích được
hoàn thiện hơn.
Chú biên
TS. Đinh Thị Thuý
4
- CHƯƠNG I
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA LỊCH sử CÁC HỌC
THUYẾT KINH TẾ
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN cúư CÚA MÔN LỊCH sứ
CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
Lreb sử các học thuyết kinh tế là một mòn khoa học xã
hội. Nó nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển, đấu tranh
và thay , thế lần nhau của các hệ thống quan điểm kinh tế
của các giai cãp CO’ bán trong các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhàu.
Những tư tưởng, quan điểm kinh tế có từ thời cổ đại.
nhưng lịch sử các học thuyết kinh tê' không nghiên cứu hết
các tư tưởng và quan điếm kính tê' mà chí nghiên cứu những
tư tưởng và quan điếm kinh tè' đã được hình thành thành
một hệ thống nhất định.
So với môn Lịch sử tư tưởng kinh tế. đối tượng nghiên
cứu của môn học này hẹp hơn. vì nó không nghiên cứu bất
cứ tư tưởng kinh tê' nào, mà nó chỉ nghiên cứu những tư
tưởng kinh tê' có tính khái quát hoá cao. đặc trưng cho một
5
- xu hướng, khuynh hướng, hay một giai đoạn lịch sử nào đó
của xã hội.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚƯ
Phương pháp nghiên cứu cơ bản của lịch sử các học
thuyết kinh tế là phương pháp duy vật biện chứng và được
áp dụng trong tiến trình lịch sử của các hình thái kinh tế -
xã hội. Vì vậy, khi nghiên cún các lý luận kinh tế. còn phéii
tìm ra nguồn gốc ra đời. những điều kiện phát triển và diệt
vong của nó ngay trong cơ sở đời sống kinh tế - xã hội.
Việc nghiên cứu các lý thuyết kinh tế phải thực hiện một
cách triệt để nguyên lắc lịch sử. Vì vậy. khi nhìn nhận,
đánh giá một tác giả. một học thuyết kinh tế nào. thì cần
phải gắn với điều kiện cụ thể. lịch sử nhất định của giai
đoạn đó.
Việc nghiên cứu môn học này còn đòi hỏi phải sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp đối
chiếu, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân
tích tổng hợp, nhằm làm rõ những thành tựu. hạn chế sự kê'
thừa và phát triển của các học thuyết kinh tế khác nhau.
III. CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨẠ CỦA MÔN LỊCH
SỬCÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
1. Chức nâng của lịch sử các học thuyết kinh tê
- Chức nãng nhận thức, tự tưởng: Môn học này trang bị
cho người học. người nghiên cứu những lý luận cơ bản của
các học thuyết kinh tế, thấy được lịch sử phát triển của các
6
- hệ thống lý thuyết kinh tế của mỗi giai cấp trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
- Chức năng thực tiễn: Việc nghiên cứu các lý thuyết
kinh tê' nhằm mục đích vận dụng chúng vào thực tiễn phát
triển kinh tế xã hội.
- Chức nãng phương pháp luận: Môn học cung cấp cơ
sở lý luận, nền tảng kiến thức cho các khoa học kinh tế
khác như kinh tê' chính trị. kinh tê' vĩ mô, kinh tê' vi mô,
kinh tế phát triển và các môn kinh tê' ngành khác.
2. Ý nghĩa của việc học tập môn Lịch sử các học
thuyết kinh tê
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế giúp chúng ta
hiểu được hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các lý thuyết
kinh tế. Đồng thời, nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh
tê' sẽ giúp cho chúng ta có cơ sở để nhận thức các khoa học
kinh tê' khác cũng như có điều kiện để tiếp cận những kiến
thức về nền kinh tế thị trường.
Như vậy. việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tê'
có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận lần thực tiễn.
7
- CHƯƠNG II
TRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG
I. Sự HÌNH THÀNH HỌC THUYÊT kinh TẾ của
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1. Tiền để kinh tê - xã hội dần đến sự xuất hiện của
chủ nghĩa trọng thương
Trường phái trọng thương là hệ thống tư tướng kinh tế
đầu tiên của giai cấp tư sản. xuất hiện trong thời kỳ quá độ từ
chế độ phong kiến sang phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Thế ký XV. XVI. XVII ở Tây Âu là thời kỳ tan rã của
chế độ phong kiến, là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa hình thành, về mặt lịch sử, đây là thời kỳ tích lũy
nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Lúc này. phương thức
sản xuất phong kiến đã tỏ ra lỗi thời, không còn thích hợp,
đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Trong khi đó. phân
công lao động xã hội đã phát triển mạnh mẽ. đã tạo ra mối
liên hệ ngày càng mật thiết giữa các vùng, các miền lãnh
thổ, giữa các quốc gia. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá
đã đòi hỏi phải có thị trường tương ứng. Do vậy quan hệ
trao đổi hàng hoá đã trở thành thường xuyên ổn định, vững
chắc. Trong điều kiện đó, thương nghiệp, đặc biệt là ngoại
8
- thương, đóng vai trò quan trọng trong việc làm giàu của giai
cấp tư sản - một giai cấp mới đang dần hình thành.
Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm
xuất hiện hệ thống kinh tế thế giới. Đồng thời, một loạt
những phát kiến về địa lý ở thế kỷ XV: Mở đầu từ việc tìm
ra đường biển từ Tây Âu sang Ân Độ. tiếp đó Critxtop-
Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ. giúp cho người châu Âu
có cơ hội tiến vào châu Mỹ. Việc phát hiện ra những mỏ
vàng ở châu Mỹ làm cho mậu dịch thế giới phát triển mạnh
mẽ. giúp các nước Tây Âu những khả nãng lớn để làm giàu.
Hoạt động chuyến vàng từ châu Mỹ sang châu Âu, việc
cướp bóc vùng Đông Âu và các dân tộc ở châu Á. châu Mỹ
và châu Phi. biến người bản xứ thành nô lệ, việc buôn bán
người da đen. chiến tranh cưó'p bóc thuộc địa và chiến tranh
thương mại đã thúc đẩy thương nghiệp thế giới phát triến
mạnh mẽ. Từ chỗ thương nghiệp chí đóng vai trò môi giới
giữa những người sản xuất nhó. thì sự phát triển mới của
sản xuất hàng hoá đã tạo ra tru thế cho thương nghiệp,
thương nghiệp chi phối công nghiệp và nông nghiệp. Người
ta thu được những món lợi lớn do cướp bóc thuộc địa và
thương mại.
Đê’ giải quyết những vấn đề cấp bách trong sự phát
triển kinh tế, đáp ứng mục đích làm giàu bằng hoạt động
thương mại của giai cấp tư sán đang hình thành và có thế
lực ngày càng lớn. những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
đã kịp thời khái quát kinh nghiệm và đề ra cương lĩnh có
tính lý luận. Như vậy, chủ nghĩa trọng thương xuất hiện.
9
- Trong bối cảnh đó. hoạt động thương mại - đặc biệt là
ngoại thương đã trớ thành ngành được để cao nhất trong
hoạt động kinh tế của các quốc gia.
2. VỊ trí lịch sử của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái lý luận đầu tiên
của kinh tế học tư sản, nó trực tiếp phản ánh quyền lợi của
giai cấp tư sản thương nghiệp trong thời kỳ tích lũy ban đầu
của chủ nghĩa tư bản. đồng thời nó cũng phản ánh sự tiến
bộ trong đời sống kinh tế của châu Âu thê' kỷ XV - XVII.
Khi đánh giá về vị trí lịch sử của chủ nghĩa trọng
thương, các nhà kinh tế học đã có nhiều cách đánh giá khác
nhau. Một số nhà kinh tế học đã coi chủ nghĩa trọng thương
là những tư tưởng ngây thơ, là một loại mê tín thời trung cổ.
Song lại có người cho rằng chủ nghĩa trọng thương là học
thuyết vạn năng...
Theo Karl Marx. tư tưởng trọng thương đã đoạn tuyệt
với thời kỳ trung cổ trong việc nhận thức những nhiệm vụ
của tư tưởng kinh tế. đã nghiên cứu về mật lý luận những
vấn đề của chủ nghĩa tư bản sớm nhất. Chủ nghĩa trọng
thương không chỉ là học thuyết kinh tế mà còn là cương
lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản.
Trên thực tế, mặc dù chưa biết đến quy luật kinh tế và
còn hạn chê' về tính lý luận, nhưng hệ thống quan điểm kinh
tế của trường phái trọng thương đã tạo ra những tiền đề cho
các lý luận kinh tế - thị trường sau này. Bởi vì chủ nghĩa
trọng thương đã khẳng định sự giàu có không phải là giá trị
sử dụng mà là giá trị. là tiền; mục đích hoạt động của kinh
10
- tê hàng hoá là lợi nhuận. Một số quan điểm của chủ nghĩa
trọng thương ngày nay vẫn còn có ý nghĩa to lớn, đặc biệt là
những quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà nước đã được
các học thuyết kinh tế tư sản hiện đại vận dụng nhiều. Tuy
nhiên, do hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau và do trình
dộ phát triển kinh tế có nhiều chênh lệch, nên sự biểu hiện
cúa chủ nghĩa trọng thương ớ các nước có những nét khác
biệt khá rõ.
II. ĐẶC TRUNG VÀ NHŨNG QUAN ĐlỂM kinh
TẾ Cơ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng của tầng lớp tư sản
thương nghiệp trong giai đoạn tan rã cúa chê' độ phong kiến
và hình thành phương thức sản xuất tư bán chủ nghĩa. Nên
về mặt hình thức, chủ nghĩa trọng thương vẫn nàm trong
khuôn khổ của chê' độ phong kiến, và phần nào đã nhượng
bộ giai cấp quý tộc. phong kiến, trong một chừng mực nhất
định đã phản ánh lợi ích của cả giai cấp phong kiến. Tuy
nhiên, nó đứng về phía lợi ích của giai cấp tư sản - nhất là
tư sản thương nghiệp.
Tư tướng xuất phát của chủ nghĩa trọng thương là sùng
bái tiền tệ. coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. nhà
nước càng nhiều tiền thì càng giàu. Từ đó. mọi chính sách
cúa nhà nước đều nhằm tàng khối lượng tiền tệ. Xuất phát
từ quan điểm coi tiền tệ là hiện thân của của cải. các nhà
trọng thương đã phê phán những hoạt động không dẫn đến
tích lũy tiền tệ, trên cơ sở đó họ lý giải các vấn đề khác của
xã hội. Chủ nghĩa trọng thương xây dựng lý thuyết tiền tệ,
11
- coi tiền tệ là phương tiện lưu thông, là của cái cất trữ và là
phương tiện đê thu lợi nhuận.
Tiếp đó. chủ nghĩa trọng thương cho rằng đe có tích lũy
tiền lệ phải thông qua hoạt động thương mại mà trước hết là
ngoại thương. Trường phái này khẳng định "nội thương là
hệ thông ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng
cúa cải phải có ngoại thương nhập dần cúa Cíii qua nội
thương". Họ đật nhiệm vụ cúa ngoại thương là xuất siêu, vì
chí có như vậy thì mới đạt được mục đích cútt hoạt động
kinh tế. mới làm tăng thêm khối lượng tiền tệ cúa một nước.
Chủ nghĩa trọng thương còn khẳng định, lợi nhuận là
do lĩnh vực lun thông, mua bán. trao đổi sinh ra. nó là kết
quá của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán dắt mà có. Các
nhà trọng thương giải thích rằng lợi nhuận thương nghiệp là
kêì quả của sự trao đổi không ngang giá trong hoạt động
thương nghiệp, không ai thu lợi mà không làm hại người
khác. Vì vậy, các quốc gia muốn thu lợi thì phải chà đạp lên
lợi ích của quốc gia khác.
Chủ nghĩa trọng thương đánh giá rất cao vai trò của nhà
nước, theo họ tích lũy tiển lệ chí thực hiện được dưới sự
giúp đỡ của nhà nước. Nhà nước phải giữ độc quyền ngoại
thương nhưng vẫn đề ra các chính sách để giúp các thương
nhân buôn bán với bên ngoài thuận lợi. Những người trọng
thương coi chính sách kinh tế của nhà nước là yếu tố quyết
định đối với sự phát triển kinh tế. vì họ quan niệm chủ
nghĩa tư bản mới ra đời, còn non yếu nên muốn tổn tại và
phát triển được phải nhờ vào sự ủng hộ và giúp đỡ của nhà
nước. Điều đó chứng tỏ chủ nghĩa trọng thương chưa thấy
12
- được tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Những
đề xuâì của họ trong chính sách chỉ thiên về tổng kết các
kinh nghiệm thực tiễn.
Những người trọng thương đặc biệt coi trọng thị trường
dân tộc. theo họ trên cơ sở hình thành và phát triển thị
trường dân tộc. mới dần mở ra thị trường thế giới. Điều này
cho thấy các nước Tây Âu chuyển từ sản xuất phong kiến
lên sán xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu bằng con đường
thương nhân trực tiếp kinh doanh, nên thị trường hình thành
chủ yếu là thị trường dân tộc. Chính thị trường dân tộc có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế.
Như vậy, thông qua các đặc trưng và các quan điểm
kinh tế chủ yếu của thuyết trọng thương có thể khẳng định:
đối tượng nghiên cứu của học thuyết kinh tế trọng thương là
lĩnh vực lưu thông mua bán. trao đổi.
III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIẺN của trường
PHÁI TRỌNG THƯƠNG
Chủ nghĩa trọng thương ở tất cả các giai đoạn' đều cho
rằng nhiệm vụ kinh tế của mỗi nước là phải làm giàu, phải
tìm ra nguồn của cải và phương thức làm tãng nguồn của
cải đó. Quan niệm này sau đó trở thành đối tượng nghiên
cứu cúa kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Chỗ khác của chủ
nghĩa trọng thương là họ quan niệm liền là tiêu chuẩn của
của cải. vì vậy phương thức làm tăng của cải chính là
phương thức làm tăng lượng tiền tệ. Phái trọng thương đã
tìm ra nguồn gốc của của cải trong lĩnh vực ngoại thương,
họ đứng trên lợi ích của mậu dịch đối ngoại để xử lý các
13
- vấn đề của kinh tế hàng hóa. 0 mỗi giai đoạn phát triển,
chủ nghĩa trọng thương đã đưa ra những biện pháp khác
nhau trên cơ sở phát triển của họ trong nhận thức và trong
quan niệm về của cải.
1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ thứ XV đến giữa thế kỷ XVI
Đây là giai đoạn sơ kỳ của chủ nghĩa trọng thương. Ớ
giai đoạn này. các đại biểu trọng thương nổi tiếng có
William Staford (Anh), Skanrula và Serra (Ý)... Các nhà
trọng thương này đồng nhất của cải với tiền tệ, họ chưa hiểu
quan hệ giữa lun thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. họ đã
đưa ra cương lĩnh coi trọng cán cân thanh toán tiền tệ (còn
gọi là chủ nghĩa trọng tiền). Tư tưởng trung tâm của các tác
phẩm kinh tê' là "Bảng cân đối tiền tệ". O đây. các nhà trọng
thương đòi cấm xuất khẩu tiền (vàng và bạc), phải tích lũy
tiền, hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá để giữ vững khối
lượng tiền trong nước, đòi nhà nước phải tích cực điều tiết
lưu thông tiền tệ, phải lập hàng rào thuế quan cao, đòi giảm
lợi tức, giám sát chặt chẽ các thương nhân nước ngoài, v.v...
Như vậy, ở giai đoạn đầu, các nhà trọng thương ủng hộ
tuyệt đối sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế.
Những biện pháp của họ đều mượn bàn tay của nhà nước để
thực hiện, và đều là những biện pháp hành chính nhằm giữ
khối lượng tiền tệ trong nước.
2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ xvn
Đây là giai đoạn chủ nghĩa trong thương thực thụ hình
thành (theo cách gọi của K. Marx). Lúc này, do sự phát
14
- triển mạnh của sản xuất hàng hoá. hoạt động trao đổi phát
triển mạnh trên các thị trường dân tộc và thị trường thế giói,
học thuyết tiền tệ không còn phù hợp nên được thay thê'
bàng học thuyết trọng thương. Thuyết trọng thương ở giai
đoạn này có các đại biểu nổi tiếng như Antoine
Montchrestien (1575-1622) và Jean Batiste Colbert (1618-
1683) người Pháp; Thomas Mun (1571-1641) người Anh...
Các nhà trọng thương lúc đó đã hiểu của cải là số sản phíim
dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi đã thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng, song phải được chuyển thành tiền thông qua
thị trường nước ngoài. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm
kinh tế là "Bảng cân đối thương mại”; ở đây, các nhà trọng
thương không chí chú trọng-đến lưu thông tiền tệ mà còn chú
trọng đến cả lưu thông hàng hoá. Họ đã hiểu, việc tăng thêm
lượng tiền tệ trong nước không dùng lại ờ lưu thông tiền tệ.
trong buôn bán thương mại phải đảm bảo xuất siêu để có
chênh lệch, tăng tiền tích lũy cho ngân khố quốc gia.
Học thuyết trọng thương đã đưa ra một loạt các biện
pháp mới thay thế cho các biện pháp trước đó như: phát
triển nội thương không hạn chế, mở rộng xuất khẩu, tán
thành nhập khẩu hàng hóa nước ngoài với quy mô lớn. tự do
lim thông tiền tệ. lên án việc tích trữ tiền, không cấm xuất
khẩu tiền (vàng và bạc), khuyến khích phát triển công nghiệp
chế tạo các sản phẩm xuất khẩu, thực hiện thương mại trung
gian, cấm xuất khẩu nguyên liệu...
Nguyên tắc nổi tiếng ở giai đoạn này là; bán nhiều,
mua ít, có như vậy tiền tự nó sẽ chảy vào trong nước mà
không cần đến các biện pháp hành chính của nhà nước.
15
- Như vậy ở giai đoạn hai. thuyết trọng thương vẫn tiếp
tục khẳng định sự cần thiết phải can thiệp của nhà nước vào
hoạt động kinh tế. nhưng lúc này các biện pháp kinh tế đã
được thay thế cho CLÍC biện pháp hành chính trước kia.
Qua hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng
thương có thể thấy rằng những quan điểm, những biện pháp
mà thuyết trọng thương đưa ra có ý nghĩa rất lớn đối với
việc tăng cường khối lượng tiền tệ cho các nước (nhất là các
nước Tây Âu), có tác dụng đẩy mạnh sản xuất và trao đổi
hàng hoá, nó đáp ứng được đòi hỏi khách quan của nền sản
xuất đang phát triển, thương nghiệp đang được mở mang
của chủ nghĩa tư bétn. Học thuyết trọng thương đã đoạn
tuyệt với nhũng tư tưởng cổ truyền được sinh ra trên cơ sớ
kinh tế tự nhiên, nó ca ngợi các thương nhân, đã đặt vấn đề
về lợi nhuận và đứng trên lĩnh vực lưu thông để giải quyết
các vấn đề đó.
Sau đó. từ giữa thế kỷ XVII trở đi. trường phái trọng
thương bước vào thời kỳ tan rã do sự phát triển mạnh mẽ
của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nhất là trong lĩnh
vực công nghiệp. Trong bối cảnh đó. lý thuyết trọng thương
với sự sùng bái tiền tệ quá mức. với các điều luật nghiêm
ngặt trong việc độc quyền ngoại thương, với tư tưởng xem
trọng hoạt động thương mại hơn hẳn so với các hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp.... đã trở nên mâu
thuẫn với lợi ích kinh tế của các tầng lớp tư sán công
nghiệp, tư sản nông nghiệp... Điều đó chứng tỏ lúc này ở
châu Âu, các quan hệ tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu bao trùm
lĩnh vực sản xuất, nhưng thuyết trọng thương không phản
16
- ánh kịp thời sự phát triển này. Do đó, sự ựnVjl tửâ ỊỷThgỹếỊ1 j
này là điều không tránh khỏi.
IV. CHỦ NGHĨẠ TRỌNG THƯƠNG Ở MỘT số
NƯỚC TRÊN THẾ Giói
Chủ nghĩa trọng thương không chỉ xuất hiện ở một
nước, mà là trào lưu tư tưởng kinh tế lớn của nhiều nước
Tây Âu. Nó xuấuhiện sớm nhất ở Ý, sau đó ở Tây Ban Nha.
Bồ Đào Nha, Hà Lan. Mãi sau này, chủ nghĩa trọng thương
,ớ Anh. Pháp mới chiếm ưu thế so với các nước nói trên. Do
hoàn cảnh chính trị - xã hội và trình độ phát triển kinh tế
của mỗi nước khác nhau nên chủ nghĩa trọng thương ở mỗi
nước có những sắc thái khác nhau. Song chín muồi hơn cả
là chủ nghĩa trọng thương Anh và Pháp. Đế’ phân biệt chủ
nghĩa trọng thương ở các quốc gia, các nhà chuyên môn
thường gọi chủ nghĩa trọng thương ở Tây Ban Nha là chủ
nghĩa trọng thương vàng, ở Pháp là chủ nghĩa trọng thương
công nghiệp, còn ở Anh là chủ nghĩa trọng thương thương
mại.
1. Chủ nghĩa trọng thương ở Ý
ở Ý. các nhà trọng thương đã có những đóng góp nhất
định đối với vấn đề lưu thông tiền tệ. với hoạt động thương
mại... Sau khi thay đổi con đường buôn bán sang phương
Đông thì ở nước này các thành phố đóng vai trò to lớn trong
mậu dịch đối ngoại với các nước Tây Âu. Chủ nghĩa trọng
thương Ý đặc biệt quan tâm tới lưu thông tiền tệ, tới vấn đề
cho vay trong xã hội.
17
- Ngay từ thế kỷ XIV đã có những tác phẩm của người Ý
viết về các vấn đề thương mại. hàng hoá. hối phiếu, sổ sách
thương mại. về vận tái đường biển, v.v... Đến thê' kỷ thứ
XVI G. Skareppa, A. Serra và Davanxait là những tác giả
nổi tiếng tiếp tục con đường nghiên cứu đó. Các nhà trọng
thương Ý đã đề nghị thủ tiêu hàng rào ngăn cách lưu thông
tiền tệ giữa các nước, tạo ra một loại tiền tệ quốc tế. đã phát
triển tư tướng "Bảng cân đối thương mại", bác bỏ cấm xuất
khẩu tiền và điều tiết thị giá của đồng tiền; đề nghị nên tạo
điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá (nhất là hàng công
nghiệp và thủ công nghiệp), v.v...
Những tác phẩm nổi tiếng của các nhà trọng thương Ý
là: "Bàn về tiền đúc" của G.Skareppa ra đời vào nãm 1582,
ở đây ông đã đề nghị triệu tập một đại hội toàn Châu Âu để
giải quyết các vấn đề thuộc lưu thông tiền tệ, thực hiện một
chế độ tiền tệ thống nhất toàn Châu Âu quy định tỷ giá cố
định của vàng và bạc (theo tỷ lệ 12:1) quy mô phát hành tiền
lẻ v.v... Tác phẩm "Lược bàn về phương tiện cung cấp vàng và
bạc cho các nước thiếu kim loại quý" của A. Serra viết vào
năm 1613, đã chống lại quan điểm của học thuyết tiền tệ ở Ý,
phản đối việc ngăn cấm xuất cảng hàng hoá và điều chỉnh giá
tiền tệ. coi công nghiệp và mở rộng mậu dịch đối ngoại là
nguồn làm giàu cho đất nước, đề xuất các giải pháp nhằm làm
tăng tiền của các nước thiếu các mỏ vàng và bạc v.v...
2. Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp
Pháp là quốc gia có chế độ phong kiến phát triển mạnh
mẽ và điển hình’, nhưng công trường thủ công tư bản ở đây
18
- lại vượt xa so với Ý và Tây Ban Nha... So với ở Anh thì chủ
nghĩa trọng thương Pháp không triệt để bằng, song so với
các nước Tây Âu khác thì lại rất đậm nét. Điều đó chứng tỏ
chế độ chuyên chế và sự phát triển sớm của chủ nghĩa tư
bản đã tạo ra những tiền đề chính trị để thực hiện cương
lĩnh của chủ nghĩa trọng thương một cách hệ thống. 0 Pháp
chủ nghĩa trọng thương có lý luận nghèo nàn. nhưng lại có
kiến thức thực tiễn phong phú; tuy không trải qua hai giai
đoạn rõ rệt nhưng nó đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy
nhanh chóng sự phát triển của nền kinh tế Pháp lúc đó.
Đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa trọng thương Pháp là
A.Montchrestien (1575-1621) và J.B.Colbert (1619-1683).
Montchrestien đã nêu tư tưởng trọng thương của ông
trong tác phẩm "Bàn về khoa kinh tế chính trị". Quan điểm
trọng thương của ông phản ánh sự quá độ giữa học thuyết
trọng 'tiền và học thuyết trọng thương thực thụ. Ông coi
môn kinh tế chính trị là một môn khoa học mới. và chính
ông là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "kinh tế chính trị"
vào nãm 1615. và đề ra những quy tắc thực tiễn cho hoạt
động kinh tế. Ông lên án sự xa hoa của giai cấp quý tộc, đề
cao chủ nghĩa dân tộc, do đó tư tưởng trọng thương của ông
mang màu sắc tiểu tư sản. Quan điểm trọng thương của ông
thể hiện ở chỗ ông coi tiền là tiêu chuẩn của sự giàu có của
một nước. Trong hoạt động thương mại, ông đề cao vai trò
của ngoại thương khi cho rầng "nội thương là hệ thống ống
dẫn, ngoại thương là máy bơm” Ông còn, khẳng định
thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều nghề khấc nhau
19
nguon tai.lieu . vn