- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Nghiên cứu hành vi mua thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam: Phần 2 - PGS. TS. Nguyễn Hoàng Việt & GS. TS Nguyễn Bách Khoa
Xem mẫu
- Chương 4
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp và quy trình nghiên cứu
4.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu
Để thu thập và xử lý dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, nhóm nghiên cứu sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Từ phân tích những khía cạnh
cụ thể của sự phát triển thị trường TPHC trong nước và thế giới, nhu cầu
của người tiêu dùng Việt Nam đối với các sản phẩm TPHC để tổng hợp và
khái quát được bản chất của vấn đề nghiên cứu; xác định các yếu tố ảnh
hưởng (thúc đẩy và hạn chế) đến hành vi mua TPHC của người tiêu dùng
Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Tổng hợp các kết quả nghiên cứu
trong và ngoài nước đã công bố có liên đến mục tiêu, đối tượng và phạm
vi nghiên cứu của đề tài, xác định những nội dung có thể kế thừa và phát
triển, đồng thời những “khoảng trống” cần phải nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu định tính (phỏng vấn chuyên gia): Nhằm
kiểm tra mức độ phù hợp của các thang đo liên quan đến các biến và nghiên
cứu sâu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua TPHC của người tiêu
dùng Việt Nam. Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng cách phỏng
vấn các chuyên gia marketing trong lĩnh vực TPHC cũng như phỏng vấn
nhóm tập trung người tiêu dùng Việt Nam nhằm gợi mở, bình luận về chủ
đề nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu định tính được sử dụng để điều chỉnh
thang đo và mô hình lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng: Nhằm thu thập dữ liệu sơ cấp
bổ sung cho các tư liệu thứ cấp giúp cho các phân tích, đánh giá được xác
thực. Nhóm nghiên cứu tiến hành điều tra người tiêu dùng tại hai thành
97
- phố lớn: Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, từ đó kiểm định các yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi mua TPHC. Đề tài sử dụng các phương pháp thống kê
mô tả như trung bình mẫu, độ lệch chuẩn, phần trăm để phân tích các thông
tin chung về việc tiêu dùng TPHC của người tiêu dùng cũng như đặc điểm
nhân khẩu học của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, đề tài sẽ sử dụng phương
pháp phân tích nhân tố (factor analysis), độ tin cậy (reliability analysis) để
đánh giá tính hiệu lực của các thang đó. Để chứng thực mô hình nghiên
cứu và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, mô hình phương trình cấu
trúc (SEM - Structural Equation Modelling) sẽ được sử dụng. Để đánh giá
sự khác biệt trong hành vi mua thực phẩm hữu cơ giữa các nhóm khách
hàng có đặc điểm khác nhau, đề tài sử dụng kiểm định t-Test và ANOVA.
4.1.2. Quy trình nghiên cứu
Hình 4.1: Quy trình nghiên cứu của đề tài
Nguồn: Tác giả
98
- Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua các bước: xây dựng mô
hình nghiên cứu, kiểm tra mô hình và thang đo, thu thập dữ liệu sơ bộ để
kiểm tra độ tin cậy của thang đo, thu thập dữ liệu chính thức, phân tích
nhân tố, kiểm định độ tin cậy của thang đo, kiểm định mô hình và các giả
thuyết nghiên cứu. Nội dung quy trình được thể hiện trong Hình 4.1.
4.2. Nghiên cứu sơ bộ và thang đo
4.2.1. Nghiên cứu sơ bộ
Nghiên cứu sơ bộ gồm nghiên cứu sơ bộ định tính và định lượng.
Mục tiêu là nhằm kiểm tra, sàng lọc và xác định mối quan hệ giữa các biến
trong mô hình lý thuyết ban đầu (đã được hình thành dựa trên nghiên cứu
tổng quan), từ đó điều chỉnh, bổ sung các biến quan sát và gợi ý các hướng
điều chỉnh khung nghiên cứu lý thuyết cho phù hợp với mục đích nghiên
cứu. Ngoài ra, do có sự khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, trình độ phát
triển, các thang đo cần được hiệu chỉnh từ ngữ, văn phong cho phù hợp
với điều kiện thực tế Việt Nam.
Nghiên cứu sơ bộ định tính: nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn
05 chuyên gia marketing trong về lĩnh vực TPHC (Hiệp hội Nông nghiệp
hữu cơ; Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững) và 1 nhóm thảo luận
(20 người) tập trung với người tiêu dùng rau quả và thịt hữu cơ. Nhóm
nghiên cứu đã xây dựng bảng hướng dẫn câu hỏi phỏng vấn. Các câu hỏi
phỏng vấn tập trung vào các vấn đề:
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua TPHC của người tiêu dùng
ở các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay.
- Các góp ý của đối tượng phỏng vấn về từng nội dung cụ thể của
thang đo, từ ngữ sử dụng trong thang đo.
Nội dung các cuộc phỏng vấn được ghi âm, được lưu trữ và mã hóa
trong máy tính, từ đó được gỡ băng và phân tích để rút ra kết luận. Kết
99
- luận được đưa ra dựa trên sự tổng hợp quan điểm chung của các đối tượng
phỏng vấn có cách nhìn tương tự nhau.
Bên cạnh phỏng vấn các chuyên gia, nhóm nghiên cứu cũng tiến
hành phỏng vấn nhóm tập trung nhằm kiểm tra các phát biểu (items) được
sử dụng trong thang đo nháp (tham khảo từ các nghiên cứu nước ngoài) có
được hiểu đúng và gần gũi với các đáp viên được chọn lọc hay không.
Đồng thời chỉnh sửa ngôn từ của thang đo nháp trước khi tiến hành khảo
sát chính thức. Đối tượng tham gia phỏng vấn gồm 20 người tiêu dùng đã
từng mua TPHC (rau, thịt hữu cơ) trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhóm đối tượng tham gia phỏng vấn tập trung giúp hiệu chỉnh ngôn
ngữ trong các biến quan sát sao cho phù hợp với ngữ cảnh nhất với đáp
viên. Cụ thể, ở thang đo “Quan tâm tới môi trường” biến quan sát ENV2
được hiệu chỉnh là “Con người đang lạm dụng môi trường một cách
nghiêm trọng”, biến ENV3 được sửa thành “Nếu muốn tồn tại con người
phải duy trì sự cân bằng với tự nhiên”. Hay ở thang đo “Kiến thức về
TPHC” biến quan sát được đề xuất sửa thành KNO3 “Tôi hiểu rõ lợi ích
về mặt môi trường của TPHC”. Cuối cùng Bảng hỏi được chấp nhận, sau
khi hiệu chỉnh lần cuối về ngôn ngữ và thay đổi trật tự một số câu hỏi để
thuận tiện hơn cho người trả lời.
4.2.2. Thang đo
Các biến số, trừ biến Hành vi mua TPHC, được đo bằng thang đo
Likert 7 khoảng cách (từ 1: hoàn toàn không đồng ý đến 7: hoàn toàn
đồng ý).
- Thang đo quan tâm tới môi trường (Môi trường): Gồm 4 biến quan
sát được tham khảo nghiên cứu của Yadav và Pathak (2016), Smith và
Paladino (2010), Chen (2009).
100
- Bảng 4.1: Thang đo sự quan tâm tới môi trường (MT)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
MT 1 Sự cân bằng của tự nhiên rất mong manh và có thể dễ Yadav và Pathak
dàng bị xáo trộn. (2016), Smith và
Paladino (2010),
MT 2 Con người đang lạm dụng môi trường một cách nghiêm Chen (2009).
trọng
MT 3 Nếu muốn tồn tại con người phải duy trì sự cân bằng với
tự nhiên
MT 4 Sự can thiệp của con người vào thiên nhiên thường gây
ra hậu quả tai hại.
- Thang đo quan tâm về an toàn thực phẩm (An toàn): Gồm 3 biến
quan sát được tham khảo nghiên cứu của Michaelidou và Hassan (2008),
Wilcock và cộng sự (2004).
Bảng 4.2: Thang đo sự quan tâm về an toàn thực phẩm (AT)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
AT 1 Ngày nay hầu hết thực phẩm đều chứa hóa chất. Michaelidou và
Hassan (2008),
AT 2 Tôi rất quan tâm về hàm lượng thuốc kháng sinh, phụ Wilcock và cộng
gia nhân tạo và chất bảo quản trong thực phẩm. sự (2004).
AT 3 Chất lượng và độ an toàn của thực phẩm hiện nay khiến
tôi quan ngại.
- Thang đo ý thức về sức khoẻ (Sức khỏe): Gồm 3 biến quan sát được
tham khảo nghiên cứu của Tarkiainen và Sundqvist (2005), Aertsens và
cộng sự (2009), Yadav và Pathak (2016).
101
- Bảng 4.3: Thang đo ý thức về sức khoẻ (SK)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
SK1 Tôi lựa chọn thực phẩm một cách kỹ lưỡng để đảm bảo Tarkiainen và
sức khỏe. Sundqvist (2005),
Aertsens và cộng
SK 2 Tôi nghĩ rằng mình là một người tiêu dùng có ý thức về sự (2009), Yadav
sức khỏe. và Pathak (2016).
SK 3 Tôi thường suy nghĩ về những vấn đề sức khỏe của bản
thân và gia đình.
- Thang đo kiến thức về TPHC (Kiến thức): gồm 4 biến quan sát được
tham khảo nghiên cứu của Aertsens và cộng sự (2009), De Magistris và
Gracia (2008).
Bảng 4.4: Thang đo kiến thức về TPHC (KT)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
KT 1 Tôi có nhiều kiến thức về TPHC hơn so với một người Aertsens và cộng
bình thường. sự (2009), De
Magistris và
KT 2 Tôi biết cách đánh giá chất lượng TPHC. Gracia (2008).
KT 3 Tôi hiểu rõ lợi ích về mặt môi trường của TPHC.
KT 4 Những người biết tôi cho rằng tôi là một chuyên gia về
TPHC.
- Thang đo thực hành marketing xanh: Hoạt động marketing dưới
góc độ môi trường được gọi là "marketing xanh", "marketing vì môi
trường" bao gồm các hoạt động marketing nhằm cố gắng giảm các tác động
tiêu cực đến xã hội và môi trường và hệ thống sản xuất hiện có, thúc đẩy
các sản phẩm và dịch vụ ít gây hại hơn. Trong nghiên cứu này, thực hành
marketing xanh đề cập tới việc tạo dựng bối cảnh mua sắm thân thiện môi
trường, quảng bá việc tiêu thụ TPHC thông qua các công cụ xúc tiến tại
điểm bán bao gồm tờ rơi, cung cấp đa dạng các chủng loại TPHC (Mohd
102
- Suki, 2018). Thang đo gồm 4 biến quan sát được tham khảo nghiên cứu
của Aertsens và cộng sự (2009), De Magistris và Gracia (2008).
Bảng 4.5: Thang đo thực hành marketing xanh (NT)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
NT 1 Cửa hàng có cung cấp tờ rơi/giới thiệu về TPHC. Aertsens và cộng
sự (2009), De
NT 2 Cửa hàng bán sản phẩm có gắn nhãn TPHC. Magistris và
Gracia (2008).
NT 3 Trong cửa hàng, có một khu vực riêng bán TPHC.
NT 4 Cửa hàng đẩy mạnh việc bày bán các thương
hiệuTPHC
- Thang đo rào cản giá TPHC: Nghiên cứu của Verhoef (2005) cho
rằng giá thành cao của TPHC ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị cảm nhận của
người tiêu dùng (tức là chi phí so với lợi ích) của sản phẩm đó, đây là
nguyên nhân dẫn tới quyết định không mua loại sản phẩm này. Thang đo
gồm 3 biến quan sát được tham khảo nghiên cứu của Tanner và Kast,
(2003); Verhoef, (2005).
Bảng 4.6: Thang đo rào cản giá TPHC (GIA)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
GIA 1 Các sản phẩm TPHC vẫn còn quá đắt. Tanner và Kast,
(2003); Verhoef,
GIA 2 Mức giá cao của TPHC là rào cản cho khách hàng. (2005).
GIA 3 Mọi người nên mua các sản phẩm TPHC cho dù chúng
đắt hơn sản phẩm thông thường.
- Thang đo sự nghi ngờ đối với nhãn TPHC (Nhãn HC): Nghiên cứu
của Tsakiridou và cộng sự (2006) chỉ ra rằng sự khác biệt giữa thực phẩm
hữu cơ và vô cơ phụ thuộc vào độ tin cậy của nhãn hữu cơ. Thang đo rào
cản sự nghi ngờ về nhãn hữu cơ của sản phẩm gồm 3 biến quan sát như
sau:
103
- Bảng 4.7: Thang đo rào cản nghi ngờ về nhãn TPHC (NHC)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
NHC 1 Tôi không thể phân biệt được TPHC và thực phẩm thông Tsakiridou và
thường bán trong cửa hàng. cộng sự, 2006;
Krystallis và cộng
NHC 2 Tôi cảm thấy không chắc chắn nhãn TPHC nào là đáng sự, 2006
tin cậy và nhãn nào là không đáng tin.
NHC 3 Các nhãn TPHC hữu cơ nhìn chung thiếu sự tin cậy.
NHC 4 Tôi không tin nhãn hữu cơ sẽ đảm bảo chất lượng sản
phẩm.
- Thang đo thái độ đối với mua TPHC: Thái độ đối với sản phẩm
phản ánh mức độ nhận thức về sự yêu thích của người đó đến với sản phẩm
đó (Juhl và Poulsen, 2000; Verbeke và Vackier, 2003). Theo Nguyễn Anh
Thư (2018), thái độ với sản phẩm được hiểu như là một động lực để giải
thích ý định tiêu dùng liên quan đến một loại kích thích kinh tế. Thang đo
gồm 4 biến quan sát được tham khảo từ các nghiên cứu của Magnusson và
cộng sự (2001), Aertsens và cộng sự (2009).
Bảng 4.8: Thang đo thái độ đối với mua TPHC (TĐ)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
TĐ 1 Mua TPHC thay vì thực phẩm thông thường đem lại Magnusson và
nhiều lợi ích. cộng sự (2001),
Aertsens và cộng
TĐ 2 Mua TPHC thay vì thực phẩm thông thường là một sự sự (2009).
lựa chọn khôn ngoan.
TĐ 3 Mua TPHC thay vì thực phẩm thông thường làm cho tôi
cảm thấy tốt hơn.
TĐ 4 Mua TPHC thay vì thực phẩm thông thường làm cho tôi
cảm thấy hài lòng.
- Thang đo hành vi mua TPHC: Biến hành vi mua TPHC được đo
lường bởi tần suất mua TPHC.
104
- Bảng 4.9: Thang đo hành vi mua TPHC (HVM)
Ký hiệu Nội dung Nguồn TK
HVM Tần suất mua TPHC trong 10 lần bạn mua thực phẩm Dean và cộng
gần đây nhất sự, (2012)
4.3. Nghiên cứu chính thức
4.3.1. Chọn mẫu
Tập mẫu tổng thể trong nghiên cứu này là công dân Việt Nam từ
18 tuổi trở lên đã mua sản phẩm TPHC trong vòng 1 tháng qua. Do không
tồn tại một khung mẫu (sampling frame) gồm tất cả người tiêu dùng TPHC,
đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện để tiếp cận
các đối tượng nghiên cứu, tại hai thành phố lớn: Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh. Nhìn chung, việc chọn lựa địa bàn nghiên cứu này là phù hợp vì
người tiêu dùng ở đây lựa chọn TPHC thường có nhận thức về môi trường,
sức khỏe, an toàn thực phẩm và sẵn lòng chấp nhận mức giá cao của TPHC
(Hughner và cộng sự, 2007). Các siêu thị và cửa hàng thực phẩm là các đại
lý phân phối chính thực thịt hữu cơ tại hai thành phố này.
Kích thước mẫu nghiên cứu được lựa chọn cần đảm bảo tính tin cậy
cho các kỹ thuật thống kê được sử dụng trong nghiên cứu như phân tích
nhân tố, phân tích bằng mô hình cấu trúc tuyến tính. Hiện tại có rất nhiều
quan điểm không thực sự thống nhất về kích cỡ mẫu phù hợp để đại diện
cho tổng thể. Theo cơ sở tiêu chuẩn 5:1 của Bollen (15 để đảm bảo phân
tích dữ liệu (phân tích nhân tố khám phá EFA - Exploratory Factory
Analysis) tốt thì cần ít nhất 5 quan sát cho 1 biến đo lường và số quan sát
không nên dưới 100. Do vậy, kích cỡ tối thiểu gấp 5 lần biến quan sát (n
= 5*m) (Hair và cộng sự 2010). Trong khi đó đối với phân tích hồi quy đa
biến, cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công thức n = 50 + 8xp trong
đó p là số nhân tố tiềm ẩn (Tabachnick và Fidell, 2006). Ngoài ra, quy tắc
lấy số quan sát có thể được dựa theo sai số biến dựa trên tổng thể nghiên
cứu (Suanders và cộng sự, 2007). Trong nghiên cứu này, có tất cả 26 biến
105
- quan sát cần tiến hành phân tích nhân tố, vì vậy cỡ mẫu tối thiểu cần là 26
x 5 = 130 quan sát.
Trong nghiên cứu này kích cỡ mẫu dự kiến là 1000 (mỗi thành phố
500) để đảm bảo khoảng tin cậy 95% với giới hạn sai số 5%. Điều tra viên
sẽ tiếp cận người tiêu dùng tại các cửa hàng bán TPHC (được sự đồng ý
của chủ cửa hàng). Điều tra viên sử dụng 2 câu hỏi sàng lọc (độ tuổi, lịch
sử mua sắm) để lựa chọn người tiêu dùng đáp ứng tiêu chuẩn của đối tượng
nghiên cứu. Người tiêu dùng đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu
được đảm bảo rằng các thông tin cá nhân của họ sẽ được bảo mật. Người
tiêu dùng được khuyến khích trả lời câu hỏi ngay tại các cửa hàng với sự
trợ giúp của các điều tra viên. Bên cạnh đó, người tiêu dùng có thể lựa
chọn tự mình hoàn thiện phiếu điều tra và gửi lại cửa hàng tại lần mua
tiếp theo.
Quá trình khảo sát diễn ra trong 3 tháng, thu hồi được 1056 phiếu
khảo sát. Những phiếu này được kiểm tra thông tin thiếu sót, những điểm
bất thường và phân phối chuẩn. Có 45 phiếu bị loại (vì không đủ thông tin,
điền thông tin không đảm bảo khách quan), kích thước mẫu cuối cùng gồm
1011 phiếu đảm bảo yêu cầu và tiếp tục được sử dụng trong các bước phân
tích tiếp theo.
4.3.2. Mô tả mẫu nghiên cứu
Đặc điểm mẫu được tổng hợp trong bảng 4.10 dưới đây.
Bảng 4.10: Thông tin về mẫu nghiên cứu
Đặc điểm Chi tiết Tỷ lệ (%)
Vùng TP. Hà Nội 45,9
TP. Hồ Chí Minh 54,1
Giới tính Nữ 52,3
Nam 47,7
106
- Đặc điểm Chi tiết Tỷ lệ (%)
Độ tuổi 18 - 29 30,0
30 - 39 24,6
40 - 49 22,1
50 - 59 14,4
Trên 60 8,9
Tình trạng Độc thân 28,9
hôn nhân
Đã kết hôn 60,9
Ly hôn/Ly thân 10,2
Trình độ Tốt nghiệp PTTH 41,6
học vấn
Cao đẳng/Đại học 35,8
Sau đại học 22,6
Thu nhập Dưới 10.000.000 VNĐ 29,3
hộ gia đình
hàng tháng 10.000.001 - 20.000.000 VNĐ 39,0
20.000.001 - 30.000.000 VNĐ 13,6
30.000.001 - 40.000.00VNĐ 7,5
40.000.001 - 50.000.001 VNĐ 7,1
Trên 50.000.000 VNĐ 3,5
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát
Ở Việt Nam, phụ nữ vẫn là đối tượng mua sắm chính, đặc biệt là đối
với mặt hàng thực phẩm trong gia đình (nữ chiếm gần 60%). Nhóm đối
tượng nghiên cứu là những người từ 18 tuổi trở lên và các phân loại các
nhóm tuổi khá tương đồng với xếp loại tuổi bởi Thống kê dân số và gia
107
- đình Việt Nam (2018). Gần 32% mẫu khảo sát có thu nhập ở mức cao từ
20-30 triệu/tháng. Có tới trên 60% người trả lời đã có gia đình và mua thực
phẩm cho gia đình. Nhìn chung tập mẫu nghiên cứu có tính đại diện và
phù hợp với yêu cầu của thiết kế nghiên cứu.
108
- Chương 5
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI
MUA THỰC PHẨM HỮU CƠ CỦA NGƯỜI
TIÊU DÙNG VIỆT NAM
5.1. Bối cảnh nghiên cứu
5.1.1. Ngành thực phẩm Việt Nam
Công nghiệp thực phẩm là một ngành có lịch sử phát triển lâu đời ở
Việt Nam, sự phát triển của ngành gắn liền với sự phát triển của ngành
nông nghiệp. Ngành công nghiệp thực phẩm là ngành chế biến sử dụng
nguyên liệu nông nghiệp, thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải
biến và nâng cao giá trị sử dụng của các sản phẩm nông nghiệp nhằm đáp
ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngành thực phẩm sản xuất ra các sản phẩm
bao gồm sữa, các sản phẩm tinh bột, thủy sản… nó còn bao gồm sản xuất
ra các sản phẩm thực phẩm trung gian khác nhau mà không phải là sản
phẩm trực tiếp. Bên cạnh đó ngành này cũng gồm: các hoạt động liên quan
đến các loại sản phẩm khác nhau như: thịt, cá, hoa quả và rau, mỡ và dầu,
sản phẩm sữa, sản phẩm bột gạo xay, cho động vật ăn, sản phẩm thực phẩm
khác và đồ uống. Sản xuất có thể được thực hiện cho chính mình cũng như
là cho bên thứ ba như trong giết mổ truyền thống.
Phân loại ngành thực phẩm chủ yếu dựa vào nguồn gốc của sản phẩm
được chế biên bao gồm 8 nhóm phân ngành chính như sau:
- Chế biến bảo quản thịt và các sản phẩm từ thịt;
- Chế biến thủy sản và các sản phẩm thủy sản;
- Chế biến và bảo quản rau quả;
- Sản xuất dầu, mỡ động vật, thực vật;
- Chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa;
109
- - Xay xát và sản xuất bột;
- Sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột;
- Sản xuất thực phẩm khác (bánh, sản xuất đường và kẹo, sản xuất
mỳ và các sản phẩm tương tự, các phần ăn sẵn, cà phê, chè và rau gia vị
cũng như các thực phẩm đặc biệt và dễ hỏng).
Bảng dưới đây thể hiện tốc độ tăng trưởng một số mặt hàng thực
phẩm, trong đó gạo và thịt chiếm tỷ trọng cao nhất. Về tốc độ tăng trưởng
doanh thu, cao nhất thuộc về rau quả chế biến các loại với tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 20%, tiếp theo là mặt hàng thịt và các sản phẩm từ
thịt với 11,5%, ngoài ra còn có các sản phẩm dầu ăn (10,75%) và sữa
(10,5%). Nhìn chung tốc độ tăng trưởng cũng như doanh thu các mặt hàng
thực phẩm đều có xu hướng ổn định trong thời gian qua.
Bảng 5.1: Tăng trưởng một số mặt hàng thực phẩm
Sản phẩm 2015 2016 2017
Gạo, ngũ cốc, bánh mì (Tỷ đồng) 153.547 167.044 184.405
Tăng trưởng DT (%) 11 9 10
Thịt và các sản phẩm từ thịt (Tỷ đồng) 93.937 101.255 110.653
Tăng trưởng DT (%) 9 8 9
Thủy hải sản (Tỷ đồng) 41.152 45.064 50.100
Tăng trưởng DT (%) 11 10 11
Sản phẩm sữa (Tỷ đồng) 7.046 7.683 8.503
Tăng trưởng DT (%) 11 9 11
Dầu ăn (Tỷ đồng) 12.459 13.583 15.029
Tăng trưởng DT (%) 11 9 11
Chế biến hoa quả (Tỷ đồng) 23.290 25.455 28.242
Tăng trưởngDT (%) 11 9 11
Rau tươi (Tỷ đồng) 21.075 22.974 25.415
Tăng trưởng DT (%) 11 9 11
Nguồn: Euromonitor, 2018
110
- Cùng với sự cải thiện về thu nhập và mức sống, thực phẩm là sản
phẩm thiết yếu do đó mà tốc độ tiêu dùng sản phẩm luôn có xu hướng tăng
trưởng mạnh, ổn định từ 9-10%/năm trong giai đoạn vừa qua.
Bảng 5.2: Chỉ số tiêu dùng thực phẩm tại Việt Nam
Chỉ tiêu 2015 2016 2017
Tiêu thụ thực phẩm (Tỷ VNĐ) 501.310 548.052 603.125
Tiêu thụ bình quân đầu người (triệu VNĐ) 5,47 5,93 6,46
Tăng trưởng tiêu thụ thực phẩm (%) 9,04 9,32 10,05
Nguồn: Euromonitor, 2018
5.1.2. Thị trường thịt và rau quả
Tình hình tiêu thụ thịt ở Việt Nam đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua,
được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng thu nhập mạnh mẽ cũng như gia tăng
dân số lên tới trên 4,5 triệu tấn vào năm 2019. Như đã đề cập trước đó, sản
lượng thịt, mặc dù tăng trưởng ổn định của nó trong vài năm trở lại đây,
đã không bắt kịp với nhu cầu tiêu thụ. Hình 5.1 cho thấy rằng trong khi
việc sản xuất thịt lợn trong nước là tương đối đủ cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước, có một sự thiếu hụt đáng kể trong việc cung cấp thịt bò và thịt
gà.
Hình 5.1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ thịt tại Việt Nam
Nguồn: MPI, 2020
111
- Thịt lợn từ lâu đã là thịt truyền thống tiêu thụ tại Việt Nam và là một
bộ phận không thể thiếu của chế độ ăn uống hàng ngày của người tiêu
dùng. Trong năm 2015, tiêu thụ thịt lợn tiếp tục được thịt chi phối tiêu thụ,
chiếm 68% tổng mức tiêu thụ và gia tăng với một tốc độ tăng trưởng hàng
năm là 3%. Thịt gia cầm, thịt phổ biến thứ hai, cũng cho thấy một sự gia
tăng ổn định trong tiêu thụ với tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ 5%. Tốc
độ tăng trưởng tiêu thụ bò dao động khoảng 3-4%, trong đó cũng tương
quan với sản lượng tăng trưởng sản xuất của nó.
Đơn vị: 1000 tấn
Hình 5.2: Tiêu thụ thịt các loại ở Việt Nam
Nguồn: MPI, 2020
Bình quân đầu người tiêu thụ thịt ở Việt Nam có thể được coi là
tương đối thấp. Trong năm 2015, mức tiêu thụ bình quân đầu người là 33,2
kg, một phần ba số tiêu thụ tại Mỹ (107 kg) và một nửa số tiêu thụ của EU
(76 kg). So với Trung Quốc, nơi mà thói quen của người tiêu dùng cũng
tương tự như ở Việt Nam, tiêu thụ cũng thấp hơn (56,4 kg). Trong khu vực
ASEAN, tiêu thụ thịt của Việt Nam là ngang bằng với Thái Lan nhưng cao
hơn so với Philippines (27 kg) và Indonesia (11 kg). Lý do cơ bản cho sự
khác biệt dường như là thu nhập bình quân đầu người tương đối thấp ở
112
- Việt Nam với sự gia tăng thu nhập hộ gia đình tiêu thụ lớn hơn thịt và
thực phẩm nguồn gốc động vật khác được mong đợi.
5.1.3. Nông nghiệp hữu cơ và thực phẩm hữu cơ Việt Nam
Trong giai đoạn vừa qua, sự chú ý đến NNHC ngày càng tăng ở nhiều
quốc gia, nhất là các nước phát triển, khi vệ sinh an toàn thực phẩm, chất
lượng nông sản và môi trường đặc biệt được chú trọng. Viện Nghiên cứu
Nông nghiệp hữu cơ FiBL (Research Institute of Organic Agriculture
FiBL) và IFOAM đã công bố tài liệu “The world of organic agriculture:
Statistics and Emerging Trends 2016” dựa trên kết quả khảo sát từ 172
quốc gia, tính đến cuối năm 2014, đã cho thấy xu hướng phát triển của nền
NNHC toàn cầu với một số nội dung đáng chú ý. Diện tích đất NNHC toàn
cầu luôn có xu hướng tăng trong những năm qua, năm 2014 đạt 43,7 triệu
ha, chiếm 0,99% đất nông nghiệp. Qua 10 năm (2004-2014), diện tích đất
NNHC tăng 146%. Số lượng tổ chức khai thác NNHC năm 2017 trên phạm
vi toàn cầu đã tăng lên gần 118.000, trong đó 40% các trang trại hữu cơ
tập trung ở châu Á và 28% ở châu Phi.
Hình 5.3: Diện tích NNHC trên thế giới
Nguồn: FiBL-IFOAM, 2016
113
- NNHC ở các châu lục có xu hướng tăng. Nhiều nước ở Châu Đại
Dương, châu Âu, Mỹ La-tinh đã khuyến khích nông dân canh tác NNHC,
đây là những khu vực có nhiều diện tích đất NNHC, lần lượt là: 17,3 triệu
ha,11,6 triệu ha và 6,8 triệu ha. Diện tích NNHC ở châu Âu phát triển đều
qua các năm, châu Đại Dương tăng mạnh trong giai đoạn 2012-2014,
chiếm đến 37,9% diện tích đất NNHC thế giới.
Hình 5.4: Phát triển diện tích NNHC theo khu vực
Nguồn: FiBL-IFOAM, 2016
Năm 2017, 51% diện tích hữu cơ tập trung ở châu Đại Dương và
21% ở châu Âu. Australia là quốc gia chiếm đến gần một nửa diện tích
NNHC. Phân bổ diện tích hữu cơ được thể hiện trong bảng 5.3.
114
- Bảng 5.3: Phân bổ diện tích hữu cơ trên thế giới năm 2017
Châu Đại
Châu Phi Châu Mỹ Châu Á Châu Âu
dương
Diện tích canh
tác hữu cơ (Triệu 2,1 11,2 6,1 14,6 35,9
Diện ha)
tích
hữu cơ Quốc gia Mỹ, Trung Tây Ban
có diện tích Tunisie Australia
Argentina Quốc Nha
hữu cơ lớn nhất
Số trang trại
814.808 454.596 1.143.152 403.208 26.750
Trang hữu cơ
trại Quốc gia có số
hữu cơ trang trại hữu cơ Ouganda Mỹ,
Ấn Độ
Thổ Nhĩ
Australia
Mehico Kỳ
lớn nhất
Ngũ cốc,
Café,
rau quả, Ngũ cốc, Ngũ cốc,
olive, Dừa, trái
Các sản phẩm hữu cơ Café, rau quả, rau quả,
cacao, cây, cafe
cacao, trái coton, dừa nho
coton
cây
Nguồn: FiBL-IFOAM, 2019
Thị trường TPHC thế giới đã tăng trưởng rất nhanh trong 10 năm trở
lại đây với doanh số 92,8 tỷ euro năm 2017 và 100,6 tỷ euro năm 2018.
Gần 9/10 lượng tiêu thụ TPHC tập trung ở Mỹ và châu Âu.
Sản xuất NNHC theo khái niệm của IFOAM chỉ mới bắt đầu được
áp dụng ở Việt Nam vào những năm 1990 với một vài sáng kiến chủ yếu
khai thác các sản phẩm tự nhiên như các loại gia vị và tinh dầu thực vật
nhằm mục đích xuất khẩu (Simmons, Scott, 2008). Theo số liệu công bố
của IFOAM (2012) năm 2010 Việt Nam chỉ có 19.272 hecta sản xuất
NNHC được chứng nhận, tương đương 0,19% diện tích canh tác, cộng với
11.650 hecta mặt nước nuôi trồng thủy sản hữu cơ và 2.565 rừng nguyên
sinh để khai thác các sản phẩm hữu cơ tự nhiên. Đến 2015, Việt Nam đã
được IFOAM công nhận là nước có sản xuất NNHC. Theo số liệu thống
115
- kê của IFOAM, năm 2015, Việt Nam là 76.666 ha NNHC, tương đương
0,7% diện tích đất nông nghiệp, với 3.816 nông dân sản xuất hữu cơ. Các
sản phẩm NNHC chủ yếu của Việt Nam là gạo, tôm, dừa, cà phê, cacao,
sữa, chè, rau, quả, quế, hồi, tinh dầu,...
Hình 5.5: Tăng trưởng tiêu thụ TPHC trên thế giới (Tỷ euro)
Nguồn: Agende BIO
Tại Việt Nam, dưới sự tài trợ của ADDA trong dự án nông nghiệp
hữu cơ và sự hỗ trợ của IFOAM, hệ thống PGS đã được xây dựng và triển
khai thành công với sự tham gia đảm bảo của tất cả các bên liên quan trong
chuỗi giá trị sản phẩm: người sản xuất, doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà
nước địa phương, người tiêu dùng. Một số chứng nhận có độ tin cậy trên
toàn thế giới đang có mặt tại Việt Nam gồm: chứng nhận tiêu chuẩn Mỹ -
USDA, tiêu chuẩn châu Âu - EU, tiêu chuẩn Nhật Bản - JAS, tiêu chuẩn
Úc - ACO, tiêu chuẩn Pháp - ECOCERT, tiêu chuẩn châu Âu - EU BIO,
tiêu chuẩn Anh - Soil Association, chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn
Canada,… Khoảng 60 tập đoàn, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã đầu tư
vào NNHC - lĩnh vực được xem là có nhiều thuận lợi để phát triển ở Việt
Nam. Trên thực tế, tiêu thụ TPHC đã trở thành một xu hướng mới ở Việt
116
nguon tai.lieu . vn