Xem mẫu

  1. 117 Chương 4 ÁNH GIÁ TAI BI)N TRT L T, L BÙN Á KHU V2C T0NH LÀO CAI TRÊN C S NGHIÊN C U !A M"O 4.1 HiTn trYng tai biPn trGt lI đKt, lL bùn đá trnh Lào Cai 4.1.1 Khái quát chung Theo số liệu thống kê của Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn (PCLB&TKCN) tỉnh Lào Cai, từ năm 1965 đến năm 2008 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra hơn 60 trận LQ, LBĐ và trượt lở lớn làm 173 người chết; 381 ngôi nhà bị sập, trôi, hàng nghìn hộ gia đình bị ảnh hưởng nghiêm trọng, trên 200 công trình giao thông, thủy lợi bị hư hỏng nặng, trên 1500ha lúa bị mất trắng. Thiệt hại về kinh tế ước tính trên 500 tỷ VNĐ [76]. Hiện tượng trượt đất phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, nhất là dọc các đường quốc lộ 4D, 4E, 70, 279. Ngoài ra còn rất nhiều điểm trượt trên các tuyến tỉnh lộ, liên huyện (đường từ Bắc Ngầm đi TT Bắc Hà, từ Bản Vược đến Mường Hum, từ TT Sa Pa đi Thanh Kim, từ Phong Niên đi Mường Khương, từ TT Bắc Hà đi Si Ma Cai...) và ở các khu vực khác cách xa đường giao thông (Bát Xát, Bảo Thắng, Sa Pa, Văn Bàn, Bắc Hà...). Những trung tâm trượt đất lớn quan sát thấy như ở Tòng Xành, A Lù (Bát Xát) hay Trung Trải (Sa Pa). Gần đây, LBĐ xảy ra ngày càng nhiều và gây nên những thiệt hại lớn về người và của. Chúng thường hình thành ở những nơi tập trung dân cư nên thiệt hại rất lớn. Trên địa bàn tỉnh, LBĐ xảy ra ở nhiều nơi đặc biệt là các huyện nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn (Bát Xát, Sa Pa). Theo không gian, những trận lũ xảy ra ở phía tây của Sông Hồng có
  2. 118 mức độ thiệt hại hơn phía đông, đặc điểm này do lượng mưa quyết định. Mặt khác LBĐ, LQ thường xảy ra ở vành đai thấp dưới 700m mức độ nhiều hơn và gây thiệt hại lớn hơn do yếu tố địa hình. Theo thời gian, LBĐ ở Lào Cai có thể xảy ra trong tất cả các tháng mùa mưa, nhưng tập trung nhiều nhất vào tháng 7 và tháng 8. Đặc biệt, có thể chỉ ra một số vụ điển hình như sau: - Năm 1969: LQ –LBĐ xảy ra tại khu vực các xã Bản Qua, Bản Vược, Cốc Mỳ (Bát Xát) vào tháng 8. Trên diện tích 200km2 có hàng trăm điểm trượt trên triền núi với các cung trượt dài liên tục đến hàng trăm mét. Dọc theo các dòng suối trong khu vực lấp đầy các tảng đá lớn, cây cối và đất cát, nhiều đoạn suối bị biến dạng, đổi dòng. Trận lũ đã làm chết 25 người, hơn 50ha ruộng bị lấp đầy từ 1-4m. Ước tính thiệt hại tới hàng tỷ đồng. - Năm 1993: Ngày 15-16 tháng 8, LQ, LBĐ ở khu vực Tả Giàng Phình, trên suối Nậm Pung thuộc vành đai cao trên 1000m. Mưa lớn kéo dài trong vài ngày trước, đêm 16/8 đã đột ngột xảy ra LQ -LBĐ, biên độ đỉnh lũ lớn khoảng 3-4m, làm chết 8 người, 13 nhà với toàn bộ tài sản và gia súc bị lũ cuốn trôi, 6 công trình thuỷ lợi nhỏ nằm trên suối bị hư hỏng nặng. Dòng lũ mang bùn đá bồi lấp hàng chục ha lúa và hoa màu. Diện tích lưu vực của nhánh suối này chỉ khoảng 4km2. Tại khu vực, thảm hoạ này đã xảy ra khoảng 30 năm trước đó. - Năm 1996: Tổng lượng mưa năm (Lào Cai - 1896mm, Sa Pa - 3354mm) cao hơn tổng lượng mưa trung bình nhiều năm. Bốn tháng đầu năm tình hình khô hạn kéo dài. Tháng 7 và tháng 8 (do ảnh hưởng của cơn bão số 2,3), mưa lớn đã gây LQ-LBĐ và trượt lở ở một số khu vực. Ngày 30/07 trên suối Na Rin xã Mường Vi, suối Ngải Thầu, xã Ngải Thầu, huyện Bát Xát đã xảy ra LQ -LBĐ làm chết 4 người. - Năm 1997: Thời tiết có nhiều diễn biến bất thường, lượng mưa năm (Lào Cai - 1.711mm, Sa Pa - 2.745mm) nhỏ hơn lượng mưa trung bình nhiều năm, vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 rất ít mưa, lượng mưa chỉ đạt 50 - 70% lượng mưa trung bình nhiều năm, gây khô hạn nghiêm trọng. Tháng 7 đến tháng 11 đã có liên tiếp 5 cơn bão gây mưa lớn. Ngày 22 tháng 7, LBĐ xảy ra trên suối Đường, xã Tả Phời, thị xã Cam Đường làm 1 người chết.
  3. 119 - Năm 1998: Ngày 24 tháng 7 tại khu vực thôn Mống Sến, xã Trung Chải, huyện Sa Pa, trên tuyến đường quốc lộ 4D Lào Cai - Sa Pa đã xảy ra TLĐ nghiêm trọng làm 8 người chết, 7 người bị thương, 3 hộ gia đình bị thiệt hại toàn bộ nhà và tài sản. Ngày 3 và 9 tháng 7 tại Bảo Yên và thị xã Lào Cai trượt lở làm 1 người chết, 2 nhà bị sập đổ thiệt hại toàn bộ tài sản. - Năm 1999: Trong các tháng 7, 8, 9 có mưa lớn do ảnh hưởng của bão gây trượt lở ở trên sườn núi, taluy đường, bờ sông suối gây thiệt hại về nhà cửa, lúa và hoa màu, đặc biệt một số công trình giao thông, thuỷ lợi bị hư hỏng nặng. Khu vực cầu Mống Sến, xã Trung Chải, huyện Sa Pa và một số điểm khác trên quốc lộ 4D đã xảy ra trượt lở nghiêm trọng. Tại Bát Xát và Cam Đường, LQ - LBĐ làm hư hại một số công trình giao thông, thủy lợi cũng như hoa màu. - Năm 2000: Trong mùa mưa tháng 7, 8, 9 tại một số nơi đã xảy ra trượt lở dạng chảy vùi lấp đất canh tác: ở các xã Pa Cheo, Phìn Ngan - huyện Bát Xát. Tại các phường Duyên Hải, Vạn Hoà, TP Lào Cai đã xuất hiện nhiều khối trượt trong vỏ phong hóa, liên tiếp trên chiều dài 500-1000m, buộc một số hộ dân phải di dời đi nơi khác. Đặc biệt là LQ, LBĐ xảy ra đêm 15/7 trên địa bàn 7 xã: Sử Pán, Bản Hồ, Thanh Kim, Bản Phùng, Thanh Phú, Suối Thầu, Nậm Sài huyện Sa Pa, gây nhiều thiệt hại làm chết 20 người, sập 60 nhà. - Năm 2001: Trong tháng 8 tại thôn Sùng Hoảng xã Phìn Ngan huyện Bát Xát TLĐ ở sườn núi, tạo nên vết nứt dài trên 300m gây nguy hiểm trực tiếp đến 3 hộ dân và trụ sở UBND xã. Ngày 15/7 LBĐ ở suối Piêng Lao, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) làm chết 2 người; ngày 8/9 LBĐ ở thôn Kíp Tước, xã Hợp Thành (TP Lào Cai) làm chết 1 người. - Năm 2002: Từ tháng 6 đến tháng 8 mưa lớn gây LQ -LBĐ và trượt lở làm 7 người chết, 21 người bị thương, 39 ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng nặng, 54 hộ dân phải di chuyển khẩn cấp ra khỏi vùng bị trượt lở, 172ha lúa và hoa màu bị mất trắng, 21 công trình thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt bị hư hỏng nặng, đường giao thông bị trượt lở khối lượng trên 360.000m3 đất đá, 23 cống qua đường bị trôi, 4 cầu treo bị hư hỏng nặng.
  4. 120
  5. 121 - Năm 2003: Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2003 mưa lớn gây LQ và trượt, sạt lở đất làm 6 người chết, 1 người bị thương, 39 nhà bị sập đổ, 54 hộ dân phải di chuyển khẩn cấp ra khỏi vùng trượt, sạt lở đất, 175ha lúa và hoa màu bị mất trắng; 21 công trình thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt bị hư hỏng; sạt lở 360.000m3 đất đá ven taluy đường giao thông; 23 cống qua đường bị sạt trôi; 4 cầu treo bị hư hỏng. Đặc biệt là TLĐ tại xã Tả Van, huyện Sa Pa và xã Tả Củ Tỷ, huyện Bắc Hà. - Năm 2004: TLĐ nghiêm trọng xảy ra trên đường 4D tại thôn Mống Sến, xã Trung Chải, huyện Sa Pa. 2000m3 đất đá đã vùi lấp một lán trại công nhân của Công ty Nam Tiến (Lào Cai) làm 2 người chết, 1 người bị thương, phá huỷ 2 xe ô tô đang đỗ tại đó. Cũng trên đường 4D, TLĐ xảy ra tại xã Trung Chải, huyện Sa Pađã vùi lấp một nhà dân người Hmông, làm 2 người chết và 2 người bị thương. Đặc biệt, đêm ngày 13/9/2004 một trận TLĐ kinh hoàng và vô cùng nghiêm trọng xảy ra tại thôn Sùng Hoảng, xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát. Từ độ cao chừng 100m, hơn 30.000m3 đất đá đã vùi lấp nhà cửa ruộng nương của 4 hộ dân, làm 24 người chết, thiệt hại kinh tế vài tỷ đồng. - Năm 2007: Ðêm 10/9, mưa to ở thượng nguồn, nước suối Ngòi Ðường dâng cao đột ngột, gây LQ làm vỡ đập đầu mối thủy điện Ngòi Ðường, cuốn đi máy xúc, sắt, thép, xi-măng tập kết tại đây cùng với lán trại của 18 công nhân Công ty Hoàng Sơn đang thi công nhà máy thủy điện, làm chết và mất tích 8 người; thiệt hại kinh tế hơn 5 tỷ đồng. - Năm 2008: Rạng sáng ngày 9/8, LBĐ xảy ra tại thung lũng Tùng Chỉn, Trịnh Tường, huyện Bát Xát cuốn trôi và vùi lấp 21 ngôi nhà cùng rất nhiều diện tích ruộng lúa, cướp đi mạng sống của 21 người. Vào thời điểm này, trên toàn bộ các huyện của Lào Cai cũng xảy ra rất nhiều vụ trượt đất. Trượt đất còn làm ách tắc tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai trong nhiều ngày. 4.1.2 Trượt lở đất, lũ bùn đá trên một số tuyến giao thông và khu dân cư + Tuyến đường Lào Cai - Sa Pa: Tuyến đường Lào Cai - Sa Pa là một phần của quốc lộ 4D, từ km 134 đến km 104. Đây là tuyến đường đặc biệt
  6. 122 quan trọng nối liền Lào Cai - Sa Pa - Lai Châu. Hiện tượng TLĐ phát triển rộng rãi trên suốt chiều dài hơn 10km từ Sa Pả đến Tòng Sành. Theo kết quả khảo sát đã xác định được 79 điểm trượt trên tuyến đường. Các điểm trượt tập trung trên các sườn có độ dốc từ 20° đến 40°, tập trung ở các đới cắt trượt có đá gốc vỡ vụn và những nơi vỏ phong hóa có lẫn sét. Tiêu biểu cho những vị trí nêu trên là đông bắc cầu Mống Sến, sườn trái đường từ Giàng Tre đến cầu Mống Sến và phía bắc thị trấn Sa Pa. + Tuyến đường Lào Cai - Bắc Hà: Tuyến đường từ thành phố Lào Cai tới thị trấn Bắc Hà là một phần của quốc lộ 70 và 4D nằm ở phía đông tỉnh Lào Cai. Hiện nay nhu cầu về trao đổi hàng hoá và du lịch trong và ngoài nước trên địa bàn này ngày càng nhiều, tuyến đường thành phố Lào Cai - thị trấn Bắc Hà đã trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây trên tuyến đường này có nhiều đoạn bị xuống cấp nghiêm trọng và thường xảy ra một số tai biến đe dọa sự an toàn của người dân địa phương, khách du lịch và chính con đường. Trên tuyến đường, hiện tượng trượt lở rất phổ biến nhưng chỉ tập trung tại một số đoạn đường có điều kiện địa mạo và địa chất công trình đặc biệt. Có thể gặp những khối TLĐ trên đoạn đường cách thành phố Lào Cai 2km và 10km, trên đoạn phía tây đầu cầu Bảo Nhai, cầu Trung Đô và đặc biệt tập trung với mật độ lớn trên đoạn đường từ km 6 đến km 9 kể từ thị trấn Bắc Hà. Các đoạn có tai biến trượt lở mạnh nhất gồm: km 68 trên QL 4D gần thành phố Lào Cai, km 55+600 (cách thành phố Lào Cai 16,4km), km 23+800 (đầu cầu Bảo Nhai), km 21 (gần cầu Trung Đô), km 6 đến km 9+500 (cách Bắc Hà). + Khu vực Thành phố Lào Cai: Tại khu vực thành phố Lào Cai, các khối trượt đất điển hình được quan sát ở phía tây phường Cốc Lếu. Tại đây, taluy đường được đào trên một sườn đồi kéo dài theo phương tây bắc - đông nam, cấu tạo bởi tầng đá phiến graphit xen đá phiến sét màu xám đen. Phía đông bắc đường ô tô là các đồi cấu tạo bởi cuội kết tuổi Neogen. Như vậy, có thể thấy là tuyến đường được xây dựng dọc theo một đứt gãy phân đới thuộc đới đứt gãy Sông Hồng. Dọc đứt gãy này, đá gốc bị cà nát kiến tạo mạnh, bị phong hoá sâu sắc tạo nên tầng sét
  7. 123 phong hoá dày. Phía tây nam của taluy đường này lại là dải đồi cao, thường xuyên cung cấp nước mặt chảy tràn và nước ngầm cho tầng đất phong hoá dưới taluy này. Nguy cơ TLĐ tại đây không tránh khỏi, đặc biệt hiện nay, tốc độ đô thị hoá cao đã khiến nhân dân đào đất lấn sâu vào sườn đồi, tạo các taluy dốc đứng. + Khu vực Mường Vi: Mường Vi là một xã miền núi huyện Bát Xát, cách thành phố Lào Cai 27km và cách trung tâm huyện Bát Xát 15km theo đường tỉnh lộ 155. Trên các dải đồi phía tây thung lũng Mường Vi hiện xuất hiện nhiều khối trượt lở có quy mô khác nhau, hiện đã thống kê được 18 khối. Phần lớn các khối trượt phân bố tại khu vực xung quanh thôn Dao, tại đây hiện có 12 khối trượt mới và nhiều đấu trượt cổ. Các khối trượt phân bố trên sườn các đồi thoải được cấu tạo bởi vật liệu deluvi hay vỏ phong hoá khá dày của đá phiến. Những khối trượt phát triển trên vỏ phong hoá thường có kích thước lớn hơn các khối trượt phát triển trên vật liệu deluvi. Hầu hết các khối trượt đều phát triển ở sườn của các dòng chảy, đặc biệt là dòng chảy tạm thời, hay trên đỉnh của các khe rãnh xói món đang phát triển, nơi nhân dân canh tác ruộng bậc thang. 4.1.3 Trượt lở đất, lũ bùn đá trên sườn và đáy thung lũng Hiện tượng TLĐ, LBĐ khá phổ biến tại Lào Cai, kể cả các khu vực ít có sự tác động của con người như trên các sườn và đáy thung lũng. Các khối trượt lở xuất hiện trên sườn có quy mô không lớn, thường không đạt được tới sự ổn định tương đối và có nguy cơ phát triển hoặc kích thích các khối trượt khác. Tại Lào Cai, các khối trượt được quan sát thấy phổ biến dọc theo các sườn thung lũng cắt vuông góc với dãy Hoàng Liên Sơn như thung lũng suối Tùng Sáng, Quang Kim, Sinh Quyền, Ngòi Đum, Ngòi Bo... hay cắt vào cao nguyên Bắc Hà như Nậm Phàng, Suối Cả... Phân tích trên ảnh máy bay và ảnh vệ tinh ta thấy, khu vực tập trung các khối trượt lở trên sườn tập trung khá nhiều ở các khu vực A Lù, Dền Sáng, Y Tý, Cốc Mỳ, Phìn Ngan (huyện Bát Xát), Thanh Kim, Thanh Phú, Nậm Cang, Tả Giang Phình (huyện Sa Pa), các xã Nấm Lư, Tung Chung Phố, Mường Khương (huyện Mường Khương) và một số xã của huyện Bắc Hà, Văn Bàn, Bảo Yên. Một số khu vực có mật độ điểm trượt rất cao (hơn 8 điểm/ km²) như tại xã Dền Sáng và Phìn Ngan.
  8. 124
  9. 125 Điểm dễ nhận thấy khi quan sát trên thực tế là các khối trượt này thường xuất hiện trên các sườn xâm thực bóc mòn dọc khe suối, xâm thực rửa trôi bề mặt và sườn xâm thực rửa rũa hòa tan đổ lở karst. Các khối trượt này phát triển trên các sườn có độ dốc khá lớn, thường là trên 30°. Mặc dù chúng không gây thiệt hại về người và của lớn như các khối trượt trên các tuyến đường giao thông và khu dân cư nhưng lại gây thiệt hại đáng kể đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp của nhân dân. Dòng bùn đá có nguồn gốc tự nhiên phát sinh khá phổ biến tại các sườn xâm thực bóc bòn dốc trên 35°, sườn xâm thực dọc khe suối, khi các khe xói phát triển tới bề mặt khá bằng phẳng và có vỏ phong hóa dày. Hiện tượng này phát triển chủ yếu tại các khu vực núi cao, sườn dốc khu vực Hoàng Liên Sơn. Ở độ cao 2600m trên đường lên đỉnh Fansipan cũng thấy xuất hiện một số dòng bùn đá, đây là khu vực hầu như không có tác động của con người. Tại các khu vực cầu Mống Sến, UBND xã Phìn Ngan, ngoài các khối trượt lớn (do tác động của yếu tố nhân sinh) thì cũng thấy xuất hiện rất nhiều các khối trượt, dòng bùn đá có nguồn gốc tự nhiên, chúng tập hợp lại thành các điểm nóng về trượt lở đất, lũ bùn đá tại Lào Cai. Trên đáy thung lũng, dạng tai biến có liên quan là LBĐ, dọc theo tất cả các sông suối phụ lưu của Sông Hồng đổ về từ dãy Hoàng Liên Sơn đều thấy xuất hiện dấu vết của lũ bùn đá. Có những trận lũ mà vật chất của chúng còn mới nguyên như tại đáy thung lũng suối Nà Tặc, Tùng Sáng, Quang Kim, Ngòi Đum, Ngòi Bo,... hay các đáy thung lũng có hướng tây nam bắt nguồn từ cao nguyên Bắc Hà đổ xuống Sông Chảy. Hiện tượng tai biến lũ bùn đá phát triển mạnh ở bờ phải Sông Hồng hơn bờ trái, đặc biệt là bậc độ cao dưới 700-800m. Từ phân tích hiện trạng, ta cũng thấy có mối liên hệ mật thiết giữa TLĐ và LBĐ. Khu vực nào xuất hiện lũ bùn đá nhiều thì đều nằm trong khu vực có mật độ các điểm trượt cao. Tuy nhiên, điều ngược lại chưa hẳn đã đúng vì ngoài trượt lở, LBĐ còn được phát sinh khi đồng thời có nhiều điều kiện khác nữa. Từ kết quả khảo sát thực địa, phân tích ảnh vệ tinh và nguồn tài liệu đã công bố khác [12, 33, 36-38, 76, 81, 105, 110], tác giả tiến hành thành lập bản đồ hiện trạng tai biến TLĐ, LBĐ tỉnh Lào Cai (hình 4.1). Quy
  10. 126 luật phân bố theo không gian của các điểm trượt lở trong khu vực nghiên cứu được thể hiện tương đối rõ. Trượt lở có mật độ lớn nhất (trên 3,2 khối trượt trên 1km2) tập trung tại các xã Lao Chải, Sử Pán, Hầu Thào (huyện Sa Pa), xã Tả Phời (huyện Cam Đường), các xã Tòng Sành, Cốc San, Bắc Cường (Bát Xát), phường Duyên Hải, Cốc Lếu, Kim Tân, Phố Mới (TP Lào Cai). Mật độ trượt từ 1,0 đến 2,2 nằm về phía Tây, Bắc và Tây - Bắc trên khu vực các xã Quang Kim, Phìn Ngan, Mường Vi, Bản Xèo, Pa Cheo (huyện Bát Xát). Các khu vực còn lại có mật độ dưới 1 khối trượt trên 1km2. Kết quả nghiên cứu hiện trạng TLĐ, LBĐ tại Lào Cai cho thấy một số quy luật về tính chất cũng như sự phân bố của chúng trong không gian và thời gian. Chúng thường tập trung tại các khu vực có những điều kiện địa chất, địa mạo nhất định và lặp đi lặp lại theo thời gian. Việc tiến hành nghiên cứu điều kiện địa mạo chi tiết tại các khu vực này sẽ rút ra được những dấu hiệu cũng như tiêu chí quan trọng để đánh giá nguy cơ tai biến. Trên cơ sở đó, tác giả tiến hành phân tích và đánh giá điều kiện địa mạo tại khu vực cầu Mống Sến, khu vực UBND xã Phìn Ngan, dòng LBĐ tại xã Trịnh Tường và khu vực cầu Trung Đô. 4.2 DKu hiTu đXa mYo liên quan tQi trGt lI đKt, lL bùn đá 4.2.1. Phân tích dấu hiệu địa mạo qua các khối trượt lở điển hình  Khối trượt và dòng bùn đá tại cầu Mống Sến Khu vực cầu Mống Sến là nơi có các khối trượt lở mạnh và rất đặc biệt trên quốc lộ 4D, đoạn Lào Cai - Sa Pa. Khu vực này thuộc địa phận sã Sa Pả, huyện Sa Pa, nơi hợp lưu giữa suối Mống Sến và suối Ngòi Đum. Từ khi có dự án nâng cấp quốc lộ 4D, các khối trượt liên tục phát triển từ quy mô nhỏ đến lớn. Cho tới nay, khối trượt chính vẫn chưa ổn định. Tại đây, có tới 13 khối trượt còn tươi mới trên các sườn núi kề bên phía đông bắc, tây bắc cầu. Khối trượt lở nguy hiểm nhất là khối trượt ở phía đông bắc cầu Mống Sến, vì nó có quy mô lớn và nằm ở taluy dương của quốc lộ 4D. Trong thời gian qua, tỉnh đã đầu tư khá nhiều kinh phí để khắc phục khối trượt lở này, nhưng hiện tại nguy cơ trượt lở vẫn đe doạ tuyến đường. Cho tới nay, bản chất của khối trượt lở ở đây vẫn chưa được hiểu rõ và các công trình xử lý trượt đều được thực hiện ngay
  11. 127 trên khu vực đang rất động của nó. Không chỉ ở phạm vi ảnh hưởng của con đường mà trong khu vực lân cận còn xuất hiện nhiều khối trượt ít có sự tác động của con người. Điều này chứng tỏ đây là một khu vực xung yếu, chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố. Địa hình khu vực cầu Mống Sến được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau, trong đó có sự xen kẽ của hai loại đá có độ bền không đồng nhất diorit, granodiorit thuộc pha 1 của phức hệ Pò Sen (δγPZ1ps1). Các đá của pha 1 bị xuyên cắt bởi các mạch và khối nhỏ đá granit sáng màu thuộc pha 2 (δγPZ1ps2) của phức hệ này. Đồng thời với sự dập vỡ đất đá mạnh bởi sự tăng cường mật độ khe nứt và đứt gãy kiến tạo tại đây, đá gốc bị phong hoá mạnh. Sự phân dị thành phần trong mặt cắt của vỏ phong hoá chính là một nhân tố hết sức quan trọng gây nên trượt lở. Các đá diorit, granodiorit dễ bị phong hoá cho sản phẩm là tập sét khá dẻo và dễ trượt khi gặp nước, còn các khối đá granit phong hoá chậm hơn, nhiều khối bị phong hoá dạng bóc vỏ với các nhân còn tươi. Các nhân do phong hoá bóc vỏ này có kích thước khá lớn, nằm xen trong mặt cắt vỏ phong hoá giàu sét. Sự mất cân bằng về tỷ trọng của hai loại vật liệu này đã dẫn tới hiện tượng trôi, đẩy và trượt của các khối đất đá, đặc biệt là khi có sự can thiệp của con người làm tăng độ dốc sườn. Các nghiên cứu về hoạt động TKT cũng cho thấy khu vực cầu Mống Sến là nơi có hoạt động kiến tạo trẻ xảy ra mạnh. Đới phá huỷ kiến tạo chạy dọc theo các suối Mống Sến, Ngòi Đum và suối Pô Si Ngài gặp nhau ở khu vực cầu Mống Sến và đới phá huỷ kiến tạo chạy qua khu vực km 112 + 100 theo phương 120° làm cho đất đá bị dập vỡ mạnh, xuất hiện nhiều khe nứt, tạo điều kiện tích nước ngầm và kích thích quá trình phong hóa hóa học nói chung và phong hóa đồng tâm xảy ra mạnh [116]. Trong các đới đá vụn thuộc vách dương của đoạn cầu Mống Sến còn lưu giữ các mặt trượt bằng phải có phương 130°, đổ về hướng đông bắc với góc dốc 70°[72]. Cách cầu về phía đông theo hướng 90° khoảng 200m là đới đá dập vỡ, độ rộng 3m, nằm sát đá gốc rắn chắc, ở đây phát triển khe nứt theo hệ 108°Ð70° và 50°Ð70°. Mặt khác, do có nhiều kẽ nứt mà vỏ phong hóa ở đây có cấu tạo bở rời, nhiều khoang hổng xuất hiện do hiện tượng tiềm thực, dẫn đến các hoạt động trượt lở. Cũng tại đây còn ghi nhận một chấn tâm động đất - một minh chứng cho các hoạt động kiến tạo hiện đại.
  12. 128 Hình 4.2: Sơ đồ hiện trạng khối trượt cầu Mống Sến Hình 4.3: Sơ đồ địa chất khu vực cầu Mống Sến Một yếu tố phát sinh trượt khác cũng có liên quan với cấu tạo của đá gốc. Các đá granit cấu tạo nên sườn khối trượt có tuổi khá cổ, chúng bị nén ép mạnh mẽ, tạo nên các mặt nén ép như mặt lớp của đá trầm tích. Sự liên kết giữa các mặt nén ép này kém, đặc biệt là trong đới phong hoá, dẫn tới nguy cơ trượt theo mặt ép. Để đánh giá ảnh hưởng của đới cắt trượt đến
  13. 129 TLĐ đá, kết quả nghiên cứu tính chất cơ lý đá trong đới cắt trượt cho thấy sức kháng cắt của đá bị dập vỡ ở phần trung tâm đới chỉ bằng nửa sức kháng cắt của đá không bị dập vỡ ở rìa đới [81, 86, 105]. Trong trường hợp cầu Mống Sến, đá ở trung tâm đới bị nghiền vụn, bở rời, có khả năng thấm nước lớn hơn nhiều so với trạng thái dăm vụn có độ gắn kết yếu, nên khả năng tạo ra khối trượt lớn rất cao. Một số khối trượt lở nhỏ tại cầu Mống Sến có mặt trượt trùng với mặt khe nứt của đá gốc. Các khối trượt lở này đều có phần đỉnh mặt trượt dốc đứng, phát triển theo mặt ép của đá gốc được hình thành từ lâu. Mặc dù khối trượt lở lớn đã được xử lý bằng biện pháp công trình, nhưng tháng 8 năm 2001 vẫn phát sinh ngay trên bề mặt của nó một khối trượt lở thứ cấp, làm chết 1 người. Về độ dốc, các khối trượt ở phần thấp xảy ra trong điều kiện độ dốc không cao vì bản thân chúng nằm trên các bề mặt có nguồn gốc san bằng bị phân cắt. Theo mặt cắt hướng kinh tuyến từ suối ngòi Đum qua khối trượt và lên tới đỉnh 1375m ta thấy có dạng bậc thang điển hình. Các khối trượt nằm ở sườn tiếp giáp với bề mặt khá bằng phẳng bên trên, nơi có vỏ phong hóa dày thì quy mô khối trượt rất lớn. Trên sơ đồ địa mạo (hình 4.6) cũng thể hiện một dải bề mặt sườn hình thành do phân cắt pedimen thung lũng dọc theo suối Mống Sến và suối ngòi Đum, phía tây cầu Mống Sến thấy xuất hiện nhiều khối trượt trên dạng địa hình này mặc dù ít có các tác động nhân sinh. Vì vậy, nghiên cứu về nguồn gốc địa hình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định điều kiện địa động lực hiện tại. Lớp phủ thực vật có khả năng điều tiết nhiệt ẩm, làm giảm động lực của nước mưa vào bề mặt đất. Hệ thống rễ làm giảm khả năng trượt trên các sườn. Tại cầu Mống Sến, rừng nguyên sinh đã bị phá huỷ hoàn toàn và thay bằng ruộng nương trồng lúa và hoa màu. Bản thân phần trung tâm khu vực trượt lở từng là những nương sắn, còn từ độ cao tuyệt đối 800m và phần rìa phía đông và phía tây là những ruộng bậc thang trồng lúa nước. Việc sử dụng đất để canh tác trồng lúa nước làm cho đất không còn lớp phủ thực vật tự nhiên, tạo điều kiện cho nước mưa thấm sâu vào thân khối trượt. Ngoài ra, để canh tác còn phải dùng nước từ hệ thống mương dẫn và lưu lại trong ruộng khi cây lúa đang mùa sinh trưởng.
  14. 130 Hình 4.4: Sơ đồ độ dốc khu vực cầu Mống Sến Hình 4.5: Sơ đồ mật độ khe rãnh xói mòn và sông suối khu vực cầu Mống Sến
  15. 131 Hình 4.6: Sơ đồ địa mạo khu vực cầu Mống Sến Trên sơ đồ mật độ sông suối và khe rãnh xói mòn ta thấy khu vực có mật độ cao nhất là suối Pô Si Ngài (phía bắc cầu Mống Sến), đây chính là suối đã xảy ra LBĐ trong quá khứ và dòng bùn đá năm 2004. Điều này chứng tỏ rằng mật độ của các khe rãnh xói mòn cao nói chung là dấu hiệu quan trọng để cảnh báo LBĐ.
  16. 132
  17. 133 Một điểm đáng lưu ý là bên cạnh khối trượt lớn tại cầu Mống Sến còn có hàng loạt khối trượt nhỏ nằm ở phần cao của địa hình. Các khối trượt nhỏ hình thành từ phía đỉnh sườn làm tăng áp lực lên đất đá ở phía dưới, buộc phần dưới sườn phải trượt theo. Như vậy, quá trình trượt diễn ra từ trên đỉnh xuống chân, nên có thể gọi là trượt đẩy. Các vết nứt gặp rất nhiều ở phía trên của khối trượt lở chính là đỉnh của các khối trượt thứ cấp. Tại khu vực cầu Mống Sến còn có hiện tượng dòng bùn đá, hiện tượng này xảy ra vào tháng 8 năm 1998 tại khu vực km119 + 400, được hình thành ở taluy dương quốc lộ 4D. Dòng bùn đá này xuất hiện trong một mương xói đang hoạt động, có đỉnh cắt lên tới bề mặt vai núi (pedimen thung lũng), nơi có độ dốc nhỏ và vỏ phong hóa dày, tập trung các ruộng bậc thang. Sau nhiều ngày mưa, nước mưa hòa trộn với vật liệu vụn bở của lớp vỏ phong hóa tạo thành một hỗn hợp lỏng, sệt chảy dài trên đoạn mương xói dài gần 200m, cuốn trôi tất cả các vật liệu trên đoạn đường đi của chúng và đổ xuống thung lũng Ngòi Đum một lượng đất đá ước tính đến 3500m3. Dòng bùn đá này đã làm chết 8 người trong đó có người già, trẻ nhỏ và khách du lịch, phá huỷ một diện tích rừng lớn, làm hư hại nặng tuyến đường và gây ách tắc giao thông nhiều ngày. Cũng tại khu vực, sườn phía tây bắc cầu Mống Sến cũng có nguồn gốc thành tạo tương tự đã xảy ra hàng loạt các khối trượt nhỏ mặc dù ít có sự tác động của con người như phía đông bắc cầu. Năm 2004, trong một đợt mưa kéo dài, mương xói hoạt động mạnh, cắt vào bề mặt pedimen thung lũng và gây ra dòng bùn đá tương tự. Hiện tại, đã có các biện pháp công trình kiên cố để ngăn chặn sự hoạt động trở lại của dòng bùn đá, song chỉ ngăn chặn tạm thời, nguy cơ xảy ra tai biến này vẫn còn, do vẫn còn các tác nhân gây ra chúng.  Trượt chảy ở xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát Một trong những khối trượt - lở gây thiệt hại nghiêm trọng tại khu vực là khối trượt lở tại xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát. Trượt lở xảy ra vào tháng 9/2004, tại thôn Sủng Hoảng, khu vực trượt lở nằm trên sườn phải
  18. 134 của thung lũng suối Ngòi San, đối diện với UBND xã. Vật liệu của khối trượt đã biến thành dòng bùn đá chảy xuống từ vai núi cao khoảng 400m, tạo ra đập tạm thời rồi tràn xuống vùi sâu hoàn toàn 4 nhà dân tại đây, làm chết toàn bộ 23 người trong đêm tối. Khối trượt này có nhiều điểm tương đồng với khối trượt cầu Mống Sến, vì vậy tác giả xin trình bày một số tiêu chí phục vụ đánh giá như sau: - Các khối trượt xảy ra trong những khu vực có độ dập vỡ kiến tạo mạnh, lớp vỏ phong hóa dày, giàu sét của loại đá granit á kiềm, khi bị sũng nước dài ngày đã tạo ra khối vật liệu hỗn hợp sền sệt dễ trượt. Hầu hết các trường hợp đều diễn ra dọc theo mương xói ở giai đoạn sơ sinh nhưng kích thước khá lớn, và sau khi kết thúc đều để lại một rãnh trũng sâu, vách dốc đứng; các mương xói đều sinh ra trên khe nứt kiến tạo hoặc tại ranh giới giữa 2 thể địa chất - thạch học khác nhau (có điều kiện thu hút nước mưa và nước dưới đất mạnh hơn xung quanh); Hình 4.7: Sơ đồ hiện trạng TLĐ, LBĐ khu vực xã Phìn Ngan
  19. 135 Hình 4.8: Sơ đồ địa mạo khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát Hình 4.9: Sơ đồ độ dốc khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát
  20. 136 Hình 4.10:Sơ đồ mật độ khe rãnh xói mòn và sông suối khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát - Các khối trượt gắn với một bậc địa hình vai núi thuộc loại bề mặt san bằng chưa hoàn thành, nghĩa là có điều kiện để tạo ra lớp vỏ phong hóa dày, phát triển sâu sắc. Trước khi xảy ra, tại đỉnh của khối trượt này đã có vết nứt dạng vòng cung báo hiệu về khả năng xảy ra trượt đất. Trên cơ sở đó, nghiên cứu tính đặc thù của môi trường địa động lực tương ứng với từng kiểu, chúng ta sẽ xác định được những dấu hiệu cảnh báo hữu hiệu. Trong khu vực nghiên cứu phổ biến 2 kiểu trượt - lở: trượt chảy và trượt thông thường (dịch chuyển từ từ, vật liệu trượt ở trạng thái dẻo không bị bão hòa nước). Vật liệu của cả 2 loại đều chủ yếu là đá bị phong hoá. Loại thứ nhất mang nhiều vật liệu sét hỗn hợp và những vật liệu bở rời thấm nước mạnh, loại thứ hai mặt trượt có thể nằm trong vỏ phong hoá hoặc là mặt tiếp xúc giữa đá gốc và vỏ phong hoá. Đây là khối trượt chảy điển hình cao 200m, rộng 100m, dài 350m. Cấu tạo bởi sản phẩm phong hoá sét laterit (feosialit) triệt để trên đá gốc granit. Độ dốc ban đầu của địa hình là 310. Một thời gian trước khi xảy ra trượt có xuất hiện các mạch đùn, sủi ở chân sườn dốc. Khu vực này
nguon tai.lieu . vn