- Trang Chủ
- Địa Lý
- Nghiên cứu địa mạo phục vụ giảm nhẹ, thiệt hại do tai biến trượt lở đất, lũ bùn đá ở tỉnh Lào Cai: Phần 2
Xem mẫu
- 117
Chương 4
ÁNH GIÁ TAI BI)N TRT L T, L BÙN Á
KHU V2C T0NH LÀO CAI
TRÊN C S NGHIÊN C U !A M"O
4.1 HiTn trYng tai biPn trGt lI đKt, lL bùn đá trnh Lào Cai
4.1.1 Khái quát chung
Theo số liệu thống kê của Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm
kiếm cứu nạn (PCLB&TKCN) tỉnh Lào Cai, từ năm 1965 đến năm 2008
trên địa bàn tỉnh đã xảy ra hơn 60 trận LQ, LBĐ và trượt lở lớn làm 173
người chết; 381 ngôi nhà bị sập, trôi, hàng nghìn hộ gia đình bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, trên 200 công trình giao thông, thủy lợi bị hư hỏng
nặng, trên 1500ha lúa bị mất trắng. Thiệt hại về kinh tế ước tính trên
500 tỷ VNĐ [76].
Hiện tượng trượt đất phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, nhất là dọc
các đường quốc lộ 4D, 4E, 70, 279. Ngoài ra còn rất nhiều điểm trượt
trên các tuyến tỉnh lộ, liên huyện (đường từ Bắc Ngầm đi TT Bắc Hà, từ
Bản Vược đến Mường Hum, từ TT Sa Pa đi Thanh Kim, từ Phong Niên
đi Mường Khương, từ TT Bắc Hà đi Si Ma Cai...) và ở các khu vực khác
cách xa đường giao thông (Bát Xát, Bảo Thắng, Sa Pa, Văn Bàn, Bắc
Hà...). Những trung tâm trượt đất lớn quan sát thấy như ở Tòng Xành,
A Lù (Bát Xát) hay Trung Trải (Sa Pa).
Gần đây, LBĐ xảy ra ngày càng nhiều và gây nên những thiệt hại
lớn về người và của. Chúng thường hình thành ở những nơi tập trung
dân cư nên thiệt hại rất lớn. Trên địa bàn tỉnh, LBĐ xảy ra ở nhiều nơi
đặc biệt là các huyện nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn (Bát Xát, Sa Pa).
Theo không gian, những trận lũ xảy ra ở phía tây của Sông Hồng có
- 118
mức độ thiệt hại hơn phía đông, đặc điểm này do lượng mưa quyết
định. Mặt khác LBĐ, LQ thường xảy ra ở vành đai thấp dưới 700m mức
độ nhiều hơn và gây thiệt hại lớn hơn do yếu tố địa hình. Theo thời gian,
LBĐ ở Lào Cai có thể xảy ra trong tất cả các tháng mùa mưa, nhưng tập
trung nhiều nhất vào tháng 7 và tháng 8. Đặc biệt, có thể chỉ ra một số
vụ điển hình như sau:
- Năm 1969: LQ –LBĐ xảy ra tại khu vực các xã Bản Qua, Bản Vược,
Cốc Mỳ (Bát Xát) vào tháng 8. Trên diện tích 200km2 có hàng trăm điểm
trượt trên triền núi với các cung trượt dài liên tục đến hàng trăm mét. Dọc
theo các dòng suối trong khu vực lấp đầy các tảng đá lớn, cây cối và đất
cát, nhiều đoạn suối bị biến dạng, đổi dòng. Trận lũ đã làm chết 25 người,
hơn 50ha ruộng bị lấp đầy từ 1-4m. Ước tính thiệt hại tới hàng tỷ đồng.
- Năm 1993: Ngày 15-16 tháng 8, LQ, LBĐ ở khu vực Tả Giàng
Phình, trên suối Nậm Pung thuộc vành đai cao trên 1000m. Mưa lớn kéo
dài trong vài ngày trước, đêm 16/8 đã đột ngột xảy ra LQ -LBĐ, biên độ
đỉnh lũ lớn khoảng 3-4m, làm chết 8 người, 13 nhà với toàn bộ tài sản và
gia súc bị lũ cuốn trôi, 6 công trình thuỷ lợi nhỏ nằm trên suối bị hư
hỏng nặng. Dòng lũ mang bùn đá bồi lấp hàng chục ha lúa và hoa màu.
Diện tích lưu vực của nhánh suối này chỉ khoảng 4km2. Tại khu vực,
thảm hoạ này đã xảy ra khoảng 30 năm trước đó.
- Năm 1996: Tổng lượng mưa năm (Lào Cai - 1896mm, Sa Pa -
3354mm) cao hơn tổng lượng mưa trung bình nhiều năm. Bốn tháng
đầu năm tình hình khô hạn kéo dài. Tháng 7 và tháng 8 (do ảnh hưởng
của cơn bão số 2,3), mưa lớn đã gây LQ-LBĐ và trượt lở ở một số khu
vực. Ngày 30/07 trên suối Na Rin xã Mường Vi, suối Ngải Thầu, xã Ngải
Thầu, huyện Bát Xát đã xảy ra LQ -LBĐ làm chết 4 người.
- Năm 1997: Thời tiết có nhiều diễn biến bất thường, lượng mưa năm
(Lào Cai - 1.711mm, Sa Pa - 2.745mm) nhỏ hơn lượng mưa trung bình
nhiều năm, vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 rất ít mưa, lượng mưa chỉ đạt
50 - 70% lượng mưa trung bình nhiều năm, gây khô hạn nghiêm trọng.
Tháng 7 đến tháng 11 đã có liên tiếp 5 cơn bão gây mưa lớn. Ngày 22
tháng 7, LBĐ xảy ra trên suối Đường, xã Tả Phời, thị xã Cam Đường làm
1 người chết.
- 119
- Năm 1998: Ngày 24 tháng 7 tại khu vực thôn Mống Sến, xã Trung
Chải, huyện Sa Pa, trên tuyến đường quốc lộ 4D Lào Cai - Sa Pa đã xảy
ra TLĐ nghiêm trọng làm 8 người chết, 7 người bị thương, 3 hộ gia
đình bị thiệt hại toàn bộ nhà và tài sản. Ngày 3 và 9 tháng 7 tại Bảo Yên
và thị xã Lào Cai trượt lở làm 1 người chết, 2 nhà bị sập đổ thiệt hại
toàn bộ tài sản.
- Năm 1999: Trong các tháng 7, 8, 9 có mưa lớn do ảnh hưởng của
bão gây trượt lở ở trên sườn núi, taluy đường, bờ sông suối gây thiệt hại
về nhà cửa, lúa và hoa màu, đặc biệt một số công trình giao thông, thuỷ
lợi bị hư hỏng nặng. Khu vực cầu Mống Sến, xã Trung Chải, huyện Sa
Pa và một số điểm khác trên quốc lộ 4D đã xảy ra trượt lở nghiêm trọng.
Tại Bát Xát và Cam Đường, LQ - LBĐ làm hư hại một số công trình giao
thông, thủy lợi cũng như hoa màu.
- Năm 2000: Trong mùa mưa tháng 7, 8, 9 tại một số nơi đã xảy ra
trượt lở dạng chảy vùi lấp đất canh tác: ở các xã Pa Cheo, Phìn Ngan -
huyện Bát Xát. Tại các phường Duyên Hải, Vạn Hoà, TP Lào Cai đã xuất
hiện nhiều khối trượt trong vỏ phong hóa, liên tiếp trên chiều dài
500-1000m, buộc một số hộ dân phải di dời đi nơi khác. Đặc biệt là LQ,
LBĐ xảy ra đêm 15/7 trên địa bàn 7 xã: Sử Pán, Bản Hồ, Thanh Kim, Bản
Phùng, Thanh Phú, Suối Thầu, Nậm Sài huyện Sa Pa, gây nhiều thiệt hại
làm chết 20 người, sập 60 nhà.
- Năm 2001: Trong tháng 8 tại thôn Sùng Hoảng xã Phìn Ngan huyện
Bát Xát TLĐ ở sườn núi, tạo nên vết nứt dài trên 300m gây nguy hiểm
trực tiếp đến 3 hộ dân và trụ sở UBND xã. Ngày 15/7 LBĐ ở suối Piêng
Lao, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) làm chết 2 người; ngày 8/9 LBĐ ở thôn
Kíp Tước, xã Hợp Thành (TP Lào Cai) làm chết 1 người.
- Năm 2002: Từ tháng 6 đến tháng 8 mưa lớn gây LQ -LBĐ và
trượt lở làm 7 người chết, 21 người bị thương, 39 ngôi nhà bị sập đổ
và hư hỏng nặng, 54 hộ dân phải di chuyển khẩn cấp ra khỏi vùng bị
trượt lở, 172ha lúa và hoa màu bị mất trắng, 21 công trình thuỷ lợi,
cấp nước sinh hoạt bị hư hỏng nặng, đường giao thông bị trượt lở
khối lượng trên 360.000m3 đất đá, 23 cống qua đường bị trôi, 4 cầu
treo bị hư hỏng nặng.
- 120
- 121
- Năm 2003: Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2003 mưa lớn gây LQ và
trượt, sạt lở đất làm 6 người chết, 1 người bị thương, 39 nhà bị sập đổ, 54
hộ dân phải di chuyển khẩn cấp ra khỏi vùng trượt, sạt lở đất, 175ha lúa
và hoa màu bị mất trắng; 21 công trình thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt bị
hư hỏng; sạt lở 360.000m3 đất đá ven taluy đường giao thông; 23 cống
qua đường bị sạt trôi; 4 cầu treo bị hư hỏng. Đặc biệt là TLĐ tại xã Tả
Van, huyện Sa Pa và xã Tả Củ Tỷ, huyện Bắc Hà.
- Năm 2004: TLĐ nghiêm trọng xảy ra trên đường 4D tại thôn Mống
Sến, xã Trung Chải, huyện Sa Pa. 2000m3 đất đá đã vùi lấp một lán trại
công nhân của Công ty Nam Tiến (Lào Cai) làm 2 người chết, 1 người bị
thương, phá huỷ 2 xe ô tô đang đỗ tại đó. Cũng trên đường 4D, TLĐ xảy
ra tại xã Trung Chải, huyện Sa Pađã vùi lấp một nhà dân người Hmông,
làm 2 người chết và 2 người bị thương. Đặc biệt, đêm ngày 13/9/2004
một trận TLĐ kinh hoàng và vô cùng nghiêm trọng xảy ra tại thôn Sùng
Hoảng, xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát. Từ độ cao chừng 100m, hơn
30.000m3 đất đá đã vùi lấp nhà cửa ruộng nương của 4 hộ dân, làm 24
người chết, thiệt hại kinh tế vài tỷ đồng.
- Năm 2007: Ðêm 10/9, mưa to ở thượng nguồn, nước suối Ngòi
Ðường dâng cao đột ngột, gây LQ làm vỡ đập đầu mối thủy điện Ngòi
Ðường, cuốn đi máy xúc, sắt, thép, xi-măng tập kết tại đây cùng với lán
trại của 18 công nhân Công ty Hoàng Sơn đang thi công nhà máy thủy
điện, làm chết và mất tích 8 người; thiệt hại kinh tế hơn 5 tỷ đồng.
- Năm 2008: Rạng sáng ngày 9/8, LBĐ xảy ra tại thung lũng Tùng
Chỉn, Trịnh Tường, huyện Bát Xát cuốn trôi và vùi lấp 21 ngôi nhà cùng
rất nhiều diện tích ruộng lúa, cướp đi mạng sống của 21 người. Vào thời
điểm này, trên toàn bộ các huyện của Lào Cai cũng xảy ra rất nhiều vụ
trượt đất. Trượt đất còn làm ách tắc tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai
trong nhiều ngày.
4.1.2 Trượt lở đất, lũ bùn đá trên một số tuyến giao thông và khu
dân cư
+ Tuyến đường Lào Cai - Sa Pa: Tuyến đường Lào Cai - Sa Pa là một
phần của quốc lộ 4D, từ km 134 đến km 104. Đây là tuyến đường đặc biệt
- 122
quan trọng nối liền Lào Cai - Sa Pa - Lai Châu. Hiện tượng TLĐ phát triển
rộng rãi trên suốt chiều dài hơn 10km từ Sa Pả đến Tòng Sành. Theo kết
quả khảo sát đã xác định được 79 điểm trượt trên tuyến đường. Các điểm
trượt tập trung trên các sườn có độ dốc từ 20° đến 40°, tập trung ở các đới
cắt trượt có đá gốc vỡ vụn và những nơi vỏ phong hóa có lẫn sét. Tiêu
biểu cho những vị trí nêu trên là đông bắc cầu Mống Sến, sườn trái đường
từ Giàng Tre đến cầu Mống Sến và phía bắc thị trấn Sa Pa.
+ Tuyến đường Lào Cai - Bắc Hà: Tuyến đường từ thành phố Lào Cai
tới thị trấn Bắc Hà là một phần của quốc lộ 70 và 4D nằm ở phía đông
tỉnh Lào Cai. Hiện nay nhu cầu về trao đổi hàng hoá và du lịch trong và
ngoài nước trên địa bàn này ngày càng nhiều, tuyến đường thành phố
Lào Cai - thị trấn Bắc Hà đã trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
trên tuyến đường này có nhiều đoạn bị xuống cấp nghiêm trọng và
thường xảy ra một số tai biến đe dọa sự an toàn của người dân địa
phương, khách du lịch và chính con đường. Trên tuyến đường, hiện
tượng trượt lở rất phổ biến nhưng chỉ tập trung tại một số đoạn đường
có điều kiện địa mạo và địa chất công trình đặc biệt. Có thể gặp những
khối TLĐ trên đoạn đường cách thành phố Lào Cai 2km và 10km, trên
đoạn phía tây đầu cầu Bảo Nhai, cầu Trung Đô và đặc biệt tập trung với
mật độ lớn trên đoạn đường từ km 6 đến km 9 kể từ thị trấn Bắc Hà. Các
đoạn có tai biến trượt lở mạnh nhất gồm: km 68 trên QL 4D gần thành
phố Lào Cai, km 55+600 (cách thành phố Lào Cai 16,4km), km 23+800
(đầu cầu Bảo Nhai), km 21 (gần cầu Trung Đô), km 6 đến km 9+500
(cách Bắc Hà).
+ Khu vực Thành phố Lào Cai: Tại khu vực thành phố Lào Cai, các
khối trượt đất điển hình được quan sát ở phía tây phường Cốc Lếu. Tại
đây, taluy đường được đào trên một sườn đồi kéo dài theo phương tây
bắc - đông nam, cấu tạo bởi tầng đá phiến graphit xen đá phiến sét màu
xám đen. Phía đông bắc đường ô tô là các đồi cấu tạo bởi cuội kết tuổi
Neogen. Như vậy, có thể thấy là tuyến đường được xây dựng dọc theo
một đứt gãy phân đới thuộc đới đứt gãy Sông Hồng. Dọc đứt gãy này,
đá gốc bị cà nát kiến tạo mạnh, bị phong hoá sâu sắc tạo nên tầng sét
- 123
phong hoá dày. Phía tây nam của taluy đường này lại là dải đồi cao,
thường xuyên cung cấp nước mặt chảy tràn và nước ngầm cho tầng đất
phong hoá dưới taluy này. Nguy cơ TLĐ tại đây không tránh khỏi, đặc
biệt hiện nay, tốc độ đô thị hoá cao đã khiến nhân dân đào đất lấn sâu
vào sườn đồi, tạo các taluy dốc đứng.
+ Khu vực Mường Vi: Mường Vi là một xã miền núi huyện Bát Xát,
cách thành phố Lào Cai 27km và cách trung tâm huyện Bát Xát 15km theo
đường tỉnh lộ 155. Trên các dải đồi phía tây thung lũng Mường Vi hiện
xuất hiện nhiều khối trượt lở có quy mô khác nhau, hiện đã thống kê
được 18 khối. Phần lớn các khối trượt phân bố tại khu vực xung quanh
thôn Dao, tại đây hiện có 12 khối trượt mới và nhiều đấu trượt cổ. Các
khối trượt phân bố trên sườn các đồi thoải được cấu tạo bởi vật liệu
deluvi hay vỏ phong hoá khá dày của đá phiến. Những khối trượt phát
triển trên vỏ phong hoá thường có kích thước lớn hơn các khối trượt phát
triển trên vật liệu deluvi. Hầu hết các khối trượt đều phát triển ở sườn của
các dòng chảy, đặc biệt là dòng chảy tạm thời, hay trên đỉnh của các khe
rãnh xói món đang phát triển, nơi nhân dân canh tác ruộng bậc thang.
4.1.3 Trượt lở đất, lũ bùn đá trên sườn và đáy thung lũng
Hiện tượng TLĐ, LBĐ khá phổ biến tại Lào Cai, kể cả các khu vực ít
có sự tác động của con người như trên các sườn và đáy thung lũng. Các
khối trượt lở xuất hiện trên sườn có quy mô không lớn, thường không
đạt được tới sự ổn định tương đối và có nguy cơ phát triển hoặc kích
thích các khối trượt khác. Tại Lào Cai, các khối trượt được quan sát thấy
phổ biến dọc theo các sườn thung lũng cắt vuông góc với dãy Hoàng
Liên Sơn như thung lũng suối Tùng Sáng, Quang Kim, Sinh Quyền,
Ngòi Đum, Ngòi Bo... hay cắt vào cao nguyên Bắc Hà như Nậm Phàng,
Suối Cả... Phân tích trên ảnh máy bay và ảnh vệ tinh ta thấy, khu vực
tập trung các khối trượt lở trên sườn tập trung khá nhiều ở các khu vực
A Lù, Dền Sáng, Y Tý, Cốc Mỳ, Phìn Ngan (huyện Bát Xát), Thanh Kim,
Thanh Phú, Nậm Cang, Tả Giang Phình (huyện Sa Pa), các xã Nấm Lư,
Tung Chung Phố, Mường Khương (huyện Mường Khương) và một số
xã của huyện Bắc Hà, Văn Bàn, Bảo Yên. Một số khu vực có mật độ điểm
trượt rất cao (hơn 8 điểm/ km²) như tại xã Dền Sáng và Phìn Ngan.
- 124
- 125
Điểm dễ nhận thấy khi quan sát trên thực tế là các khối trượt này
thường xuất hiện trên các sườn xâm thực bóc mòn dọc khe suối, xâm thực
rửa trôi bề mặt và sườn xâm thực rửa rũa hòa tan đổ lở karst. Các khối
trượt này phát triển trên các sườn có độ dốc khá lớn, thường là trên 30°.
Mặc dù chúng không gây thiệt hại về người và của lớn như các khối trượt
trên các tuyến đường giao thông và khu dân cư nhưng lại gây thiệt hại
đáng kể đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp của nhân dân.
Dòng bùn đá có nguồn gốc tự nhiên phát sinh khá phổ biến tại các
sườn xâm thực bóc bòn dốc trên 35°, sườn xâm thực dọc khe suối, khi
các khe xói phát triển tới bề mặt khá bằng phẳng và có vỏ phong hóa
dày. Hiện tượng này phát triển chủ yếu tại các khu vực núi cao, sườn
dốc khu vực Hoàng Liên Sơn. Ở độ cao 2600m trên đường lên đỉnh
Fansipan cũng thấy xuất hiện một số dòng bùn đá, đây là khu vực hầu
như không có tác động của con người. Tại các khu vực cầu Mống Sến,
UBND xã Phìn Ngan, ngoài các khối trượt lớn (do tác động của yếu tố
nhân sinh) thì cũng thấy xuất hiện rất nhiều các khối trượt, dòng bùn đá
có nguồn gốc tự nhiên, chúng tập hợp lại thành các điểm nóng về trượt
lở đất, lũ bùn đá tại Lào Cai.
Trên đáy thung lũng, dạng tai biến có liên quan là LBĐ, dọc theo tất
cả các sông suối phụ lưu của Sông Hồng đổ về từ dãy Hoàng Liên Sơn
đều thấy xuất hiện dấu vết của lũ bùn đá. Có những trận lũ mà vật chất
của chúng còn mới nguyên như tại đáy thung lũng suối Nà Tặc, Tùng
Sáng, Quang Kim, Ngòi Đum, Ngòi Bo,... hay các đáy thung lũng có
hướng tây nam bắt nguồn từ cao nguyên Bắc Hà đổ xuống Sông Chảy.
Hiện tượng tai biến lũ bùn đá phát triển mạnh ở bờ phải Sông Hồng hơn
bờ trái, đặc biệt là bậc độ cao dưới 700-800m. Từ phân tích hiện trạng, ta
cũng thấy có mối liên hệ mật thiết giữa TLĐ và LBĐ. Khu vực nào xuất
hiện lũ bùn đá nhiều thì đều nằm trong khu vực có mật độ các điểm
trượt cao. Tuy nhiên, điều ngược lại chưa hẳn đã đúng vì ngoài trượt lở,
LBĐ còn được phát sinh khi đồng thời có nhiều điều kiện khác nữa.
Từ kết quả khảo sát thực địa, phân tích ảnh vệ tinh và nguồn tài liệu
đã công bố khác [12, 33, 36-38, 76, 81, 105, 110], tác giả tiến hành thành
lập bản đồ hiện trạng tai biến TLĐ, LBĐ tỉnh Lào Cai (hình 4.1). Quy
- 126
luật phân bố theo không gian của các điểm trượt lở trong khu vực
nghiên cứu được thể hiện tương đối rõ. Trượt lở có mật độ lớn nhất
(trên 3,2 khối trượt trên 1km2) tập trung tại các xã Lao Chải, Sử Pán, Hầu
Thào (huyện Sa Pa), xã Tả Phời (huyện Cam Đường), các xã Tòng Sành,
Cốc San, Bắc Cường (Bát Xát), phường Duyên Hải, Cốc Lếu, Kim Tân,
Phố Mới (TP Lào Cai). Mật độ trượt từ 1,0 đến 2,2 nằm về phía Tây, Bắc
và Tây - Bắc trên khu vực các xã Quang Kim, Phìn Ngan, Mường Vi, Bản
Xèo, Pa Cheo (huyện Bát Xát). Các khu vực còn lại có mật độ dưới 1 khối
trượt trên 1km2.
Kết quả nghiên cứu hiện trạng TLĐ, LBĐ tại Lào Cai cho thấy một
số quy luật về tính chất cũng như sự phân bố của chúng trong không
gian và thời gian. Chúng thường tập trung tại các khu vực có những
điều kiện địa chất, địa mạo nhất định và lặp đi lặp lại theo thời gian.
Việc tiến hành nghiên cứu điều kiện địa mạo chi tiết tại các khu vực này
sẽ rút ra được những dấu hiệu cũng như tiêu chí quan trọng để đánh giá
nguy cơ tai biến. Trên cơ sở đó, tác giả tiến hành phân tích và đánh giá
điều kiện địa mạo tại khu vực cầu Mống Sến, khu vực UBND xã Phìn
Ngan, dòng LBĐ tại xã Trịnh Tường và khu vực cầu Trung Đô.
4.2 DKu hiTu đXa mYo liên quan tQi trGt lI đKt, lL bùn đá
4.2.1. Phân tích dấu hiệu địa mạo qua các khối trượt lở điển hình
Khối trượt và dòng bùn đá tại cầu Mống Sến
Khu vực cầu Mống Sến là nơi có các khối trượt lở mạnh và rất đặc
biệt trên quốc lộ 4D, đoạn Lào Cai - Sa Pa. Khu vực này thuộc địa phận
sã Sa Pả, huyện Sa Pa, nơi hợp lưu giữa suối Mống Sến và suối Ngòi
Đum. Từ khi có dự án nâng cấp quốc lộ 4D, các khối trượt liên tục phát
triển từ quy mô nhỏ đến lớn. Cho tới nay, khối trượt chính vẫn chưa ổn
định. Tại đây, có tới 13 khối trượt còn tươi mới trên các sườn núi kề bên
phía đông bắc, tây bắc cầu. Khối trượt lở nguy hiểm nhất là khối trượt ở
phía đông bắc cầu Mống Sến, vì nó có quy mô lớn và nằm ở taluy dương
của quốc lộ 4D. Trong thời gian qua, tỉnh đã đầu tư khá nhiều kinh phí
để khắc phục khối trượt lở này, nhưng hiện tại nguy cơ trượt lở vẫn đe
doạ tuyến đường. Cho tới nay, bản chất của khối trượt lở ở đây vẫn
chưa được hiểu rõ và các công trình xử lý trượt đều được thực hiện ngay
- 127
trên khu vực đang rất động của nó. Không chỉ ở phạm vi ảnh hưởng của
con đường mà trong khu vực lân cận còn xuất hiện nhiều khối trượt ít có
sự tác động của con người. Điều này chứng tỏ đây là một khu vực xung
yếu, chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố.
Địa hình khu vực cầu Mống Sến được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác
nhau, trong đó có sự xen kẽ của hai loại đá có độ bền không đồng nhất
diorit, granodiorit thuộc pha 1 của phức hệ Pò Sen (δγPZ1ps1). Các đá của
pha 1 bị xuyên cắt bởi các mạch và khối nhỏ đá granit sáng màu thuộc
pha 2 (δγPZ1ps2) của phức hệ này. Đồng thời với sự dập vỡ đất đá mạnh
bởi sự tăng cường mật độ khe nứt và đứt gãy kiến tạo tại đây, đá gốc bị
phong hoá mạnh. Sự phân dị thành phần trong mặt cắt của vỏ phong
hoá chính là một nhân tố hết sức quan trọng gây nên trượt lở. Các đá
diorit, granodiorit dễ bị phong hoá cho sản phẩm là tập sét khá dẻo và
dễ trượt khi gặp nước, còn các khối đá granit phong hoá chậm hơn,
nhiều khối bị phong hoá dạng bóc vỏ với các nhân còn tươi. Các nhân
do phong hoá bóc vỏ này có kích thước khá lớn, nằm xen trong mặt cắt
vỏ phong hoá giàu sét. Sự mất cân bằng về tỷ trọng của hai loại vật liệu
này đã dẫn tới hiện tượng trôi, đẩy và trượt của các khối đất đá, đặc biệt
là khi có sự can thiệp của con người làm tăng độ dốc sườn.
Các nghiên cứu về hoạt động TKT cũng cho thấy khu vực cầu Mống
Sến là nơi có hoạt động kiến tạo trẻ xảy ra mạnh. Đới phá huỷ kiến tạo chạy
dọc theo các suối Mống Sến, Ngòi Đum và suối Pô Si Ngài gặp nhau ở khu
vực cầu Mống Sến và đới phá huỷ kiến tạo chạy qua khu vực km 112 + 100
theo phương 120° làm cho đất đá bị dập vỡ mạnh, xuất hiện nhiều khe nứt,
tạo điều kiện tích nước ngầm và kích thích quá trình phong hóa hóa học nói
chung và phong hóa đồng tâm xảy ra mạnh [116]. Trong các đới đá vụn
thuộc vách dương của đoạn cầu Mống Sến còn lưu giữ các mặt trượt bằng
phải có phương 130°, đổ về hướng đông bắc với góc dốc 70°[72]. Cách cầu
về phía đông theo hướng 90° khoảng 200m là đới đá dập vỡ, độ rộng 3m,
nằm sát đá gốc rắn chắc, ở đây phát triển khe nứt theo hệ 108°Ð70° và
50°Ð70°. Mặt khác, do có nhiều kẽ nứt mà vỏ phong hóa ở đây có cấu tạo
bở rời, nhiều khoang hổng xuất hiện do hiện tượng tiềm thực, dẫn đến các
hoạt động trượt lở. Cũng tại đây còn ghi nhận một chấn tâm động đất - một
minh chứng cho các hoạt động kiến tạo hiện đại.
- 128
Hình 4.2: Sơ đồ hiện trạng khối trượt cầu Mống Sến
Hình 4.3: Sơ đồ địa chất khu vực cầu Mống Sến
Một yếu tố phát sinh trượt khác cũng có liên quan với cấu tạo của đá
gốc. Các đá granit cấu tạo nên sườn khối trượt có tuổi khá cổ, chúng bị nén
ép mạnh mẽ, tạo nên các mặt nén ép như mặt lớp của đá trầm tích. Sự liên
kết giữa các mặt nén ép này kém, đặc biệt là trong đới phong hoá, dẫn tới
nguy cơ trượt theo mặt ép. Để đánh giá ảnh hưởng của đới cắt trượt đến
- 129
TLĐ đá, kết quả nghiên cứu tính chất cơ lý đá trong đới cắt trượt cho thấy
sức kháng cắt của đá bị dập vỡ ở phần trung tâm đới chỉ bằng nửa sức
kháng cắt của đá không bị dập vỡ ở rìa đới [81, 86, 105]. Trong trường hợp
cầu Mống Sến, đá ở trung tâm đới bị nghiền vụn, bở rời, có khả năng thấm
nước lớn hơn nhiều so với trạng thái dăm vụn có độ gắn kết yếu, nên khả
năng tạo ra khối trượt lớn rất cao. Một số khối trượt lở nhỏ tại cầu Mống
Sến có mặt trượt trùng với mặt khe nứt của đá gốc. Các khối trượt lở này
đều có phần đỉnh mặt trượt dốc đứng, phát triển theo mặt ép của đá gốc
được hình thành từ lâu. Mặc dù khối trượt lở lớn đã được xử lý bằng biện
pháp công trình, nhưng tháng 8 năm 2001 vẫn phát sinh ngay trên bề mặt
của nó một khối trượt lở thứ cấp, làm chết 1 người.
Về độ dốc, các khối trượt ở phần thấp xảy ra trong điều kiện độ dốc
không cao vì bản thân chúng nằm trên các bề mặt có nguồn gốc san
bằng bị phân cắt. Theo mặt cắt hướng kinh tuyến từ suối ngòi Đum qua
khối trượt và lên tới đỉnh 1375m ta thấy có dạng bậc thang điển hình.
Các khối trượt nằm ở sườn tiếp giáp với bề mặt khá bằng phẳng bên
trên, nơi có vỏ phong hóa dày thì quy mô khối trượt rất lớn. Trên sơ đồ
địa mạo (hình 4.6) cũng thể hiện một dải bề mặt sườn hình thành do
phân cắt pedimen thung lũng dọc theo suối Mống Sến và suối ngòi
Đum, phía tây cầu Mống Sến thấy xuất hiện nhiều khối trượt trên dạng
địa hình này mặc dù ít có các tác động nhân sinh. Vì vậy, nghiên cứu về
nguồn gốc địa hình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định điều
kiện địa động lực hiện tại.
Lớp phủ thực vật có khả năng điều tiết nhiệt ẩm, làm giảm động lực
của nước mưa vào bề mặt đất. Hệ thống rễ làm giảm khả năng trượt trên
các sườn. Tại cầu Mống Sến, rừng nguyên sinh đã bị phá huỷ hoàn toàn
và thay bằng ruộng nương trồng lúa và hoa màu. Bản thân phần trung
tâm khu vực trượt lở từng là những nương sắn, còn từ độ cao tuyệt đối
800m và phần rìa phía đông và phía tây là những ruộng bậc thang trồng
lúa nước. Việc sử dụng đất để canh tác trồng lúa nước làm cho đất không
còn lớp phủ thực vật tự nhiên, tạo điều kiện cho nước mưa thấm sâu vào
thân khối trượt. Ngoài ra, để canh tác còn phải dùng nước từ hệ thống
mương dẫn và lưu lại trong ruộng khi cây lúa đang mùa sinh trưởng.
- 130
Hình 4.4: Sơ đồ độ dốc khu vực cầu Mống Sến
Hình 4.5: Sơ đồ mật độ khe rãnh xói mòn và sông suối khu vực cầu Mống Sến
- 131
Hình 4.6: Sơ đồ địa mạo khu vực cầu Mống Sến
Trên sơ đồ mật độ sông suối và khe rãnh xói mòn ta thấy khu vực có
mật độ cao nhất là suối Pô Si Ngài (phía bắc cầu Mống Sến), đây chính
là suối đã xảy ra LBĐ trong quá khứ và dòng bùn đá năm 2004. Điều
này chứng tỏ rằng mật độ của các khe rãnh xói mòn cao nói chung là
dấu hiệu quan trọng để cảnh báo LBĐ.
- 132
- 133
Một điểm đáng lưu ý là bên cạnh khối trượt lớn tại cầu Mống Sến
còn có hàng loạt khối trượt nhỏ nằm ở phần cao của địa hình. Các khối
trượt nhỏ hình thành từ phía đỉnh sườn làm tăng áp lực lên đất đá ở
phía dưới, buộc phần dưới sườn phải trượt theo. Như vậy, quá trình
trượt diễn ra từ trên đỉnh xuống chân, nên có thể gọi là trượt đẩy. Các vết
nứt gặp rất nhiều ở phía trên của khối trượt lở chính là đỉnh của các khối
trượt thứ cấp.
Tại khu vực cầu Mống Sến còn có hiện tượng dòng bùn đá, hiện
tượng này xảy ra vào tháng 8 năm 1998 tại khu vực km119 + 400,
được hình thành ở taluy dương quốc lộ 4D. Dòng bùn đá này xuất
hiện trong một mương xói đang hoạt động, có đỉnh cắt lên tới bề mặt
vai núi (pedimen thung lũng), nơi có độ dốc nhỏ và vỏ phong hóa
dày, tập trung các ruộng bậc thang. Sau nhiều ngày mưa, nước mưa
hòa trộn với vật liệu vụn bở của lớp vỏ phong hóa tạo thành một hỗn
hợp lỏng, sệt chảy dài trên đoạn mương xói dài gần 200m, cuốn trôi
tất cả các vật liệu trên đoạn đường đi của chúng và đổ xuống thung
lũng Ngòi Đum một lượng đất đá ước tính đến 3500m3. Dòng bùn đá
này đã làm chết 8 người trong đó có người già, trẻ nhỏ và khách du
lịch, phá huỷ một diện tích rừng lớn, làm hư hại nặng tuyến đường
và gây ách tắc giao thông nhiều ngày. Cũng tại khu vực, sườn phía
tây bắc cầu Mống Sến cũng có nguồn gốc thành tạo tương tự đã xảy
ra hàng loạt các khối trượt nhỏ mặc dù ít có sự tác động của con
người như phía đông bắc cầu. Năm 2004, trong một đợt mưa kéo dài,
mương xói hoạt động mạnh, cắt vào bề mặt pedimen thung lũng và
gây ra dòng bùn đá tương tự. Hiện tại, đã có các biện pháp công trình
kiên cố để ngăn chặn sự hoạt động trở lại của dòng bùn đá, song chỉ
ngăn chặn tạm thời, nguy cơ xảy ra tai biến này vẫn còn, do vẫn còn
các tác nhân gây ra chúng.
Trượt chảy ở xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát
Một trong những khối trượt - lở gây thiệt hại nghiêm trọng tại khu
vực là khối trượt lở tại xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát. Trượt lở xảy ra vào
tháng 9/2004, tại thôn Sủng Hoảng, khu vực trượt lở nằm trên sườn phải
- 134
của thung lũng suối Ngòi San, đối diện với UBND xã. Vật liệu của khối
trượt đã biến thành dòng bùn đá chảy xuống từ vai núi cao khoảng
400m, tạo ra đập tạm thời rồi tràn xuống vùi sâu hoàn toàn 4 nhà dân tại
đây, làm chết toàn bộ 23 người trong đêm tối. Khối trượt này có nhiều
điểm tương đồng với khối trượt cầu Mống Sến, vì vậy tác giả xin trình
bày một số tiêu chí phục vụ đánh giá như sau:
- Các khối trượt xảy ra trong những khu vực có độ dập vỡ kiến
tạo mạnh, lớp vỏ phong hóa dày, giàu sét của loại đá granit á kiềm,
khi bị sũng nước dài ngày đã tạo ra khối vật liệu hỗn hợp sền sệt dễ
trượt. Hầu hết các trường hợp đều diễn ra dọc theo mương xói ở giai
đoạn sơ sinh nhưng kích thước khá lớn, và sau khi kết thúc đều để lại
một rãnh trũng sâu, vách dốc đứng; các mương xói đều sinh ra trên
khe nứt kiến tạo hoặc tại ranh giới giữa 2 thể địa chất - thạch học
khác nhau (có điều kiện thu hút nước mưa và nước dưới đất mạnh
hơn xung quanh);
Hình 4.7: Sơ đồ hiện trạng TLĐ, LBĐ khu vực xã Phìn Ngan
- 135
Hình 4.8: Sơ đồ địa mạo khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát
Hình 4.9: Sơ đồ độ dốc khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát
- 136
Hình 4.10:Sơ đồ mật độ khe rãnh xói mòn và sông suối
khu vực xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát
- Các khối trượt gắn với một bậc địa hình vai núi thuộc loại bề mặt
san bằng chưa hoàn thành, nghĩa là có điều kiện để tạo ra lớp vỏ phong
hóa dày, phát triển sâu sắc. Trước khi xảy ra, tại đỉnh của khối trượt này
đã có vết nứt dạng vòng cung báo hiệu về khả năng xảy ra trượt đất.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu tính đặc thù của môi trường địa động lực
tương ứng với từng kiểu, chúng ta sẽ xác định được những dấu hiệu
cảnh báo hữu hiệu.
Trong khu vực nghiên cứu phổ biến 2 kiểu trượt - lở: trượt chảy và
trượt thông thường (dịch chuyển từ từ, vật liệu trượt ở trạng thái dẻo
không bị bão hòa nước). Vật liệu của cả 2 loại đều chủ yếu là đá bị
phong hoá. Loại thứ nhất mang nhiều vật liệu sét hỗn hợp và những vật
liệu bở rời thấm nước mạnh, loại thứ hai mặt trượt có thể nằm trong vỏ
phong hoá hoặc là mặt tiếp xúc giữa đá gốc và vỏ phong hoá.
Đây là khối trượt chảy điển hình cao 200m, rộng 100m, dài 350m.
Cấu tạo bởi sản phẩm phong hoá sét laterit (feosialit) triệt để trên đá gốc
granit. Độ dốc ban đầu của địa hình là 310. Một thời gian trước khi xảy
ra trượt có xuất hiện các mạch đùn, sủi ở chân sườn dốc. Khu vực này
nguon tai.lieu . vn