Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHUNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2013-L GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS KHUẤT QUANG PHÁT
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình ! Người cam đoan Nguyễn Thị Nhung
  3. Danh mục các từ viết tắt: Agribank Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ĐMC Đánh giá môi trường chiến lược ĐTM Đánh giá tác động môi trường EC Uỷ ban châu Âu EP Nguyên tắc xích đạo EVN Tập đoàn điện lực Việt Nam IFC Tổ chức tài chính quốc tế IISD Viện phát triển bền vững quốc tế MT-XH Môi trường và xã hội NHNN Ngân hàng nhà nước Pan Nature Trung tâm con người và thiên nhiên TCTD Tổ chức tín dụng VDP Ngân hàng phát triển Việt Nam VIETCOMBANK Ngân hàng ngoại thương VIETTINBANK Ngân hàng công thương WB Ngân hàng thế giới
  4. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Nội dung thẩm định tín dụng của ngân hàng Vietcombank Hộp 1: Nguyên tắc xích đạo
  5. MỤC LỤC Phần mở đầu ............................................................................................................................. 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của các ngân hàng và mối quan hệ giữa hoạt động cho vay và vấn đề môi trường .................................................................. 4 1.1. Thực trạng môi trường hiện nay .................................................................................. 4 1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường ..... 6 1.2.1. Khái niệm cho vay và vai trò của hoạt động cho vay của các ngân hàng .......... 6 1.2.2. Mối quan hệ giữa hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường ........................................................................................................................................... 10 Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng trong mối quan hệ với vấn đề môi trường.............................................................................................. 13 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay đối với các dự án đầu tư có rủi ro môi trường cao ............................................................................................................................ 13 2.1.1. Quy định về vai trò của ngân hàng trong quá trình thẩm định, phê duyệt và thực hiện các bản cam kết bảo vệ môi trường .............................................................. 13 2.1.2. Quy định về quy trình cho vay của ngân hàng đối với các dự án có rủi ro cao với môi trường ................................................................................................................. 14 2.1.2.1. Quy định về điều kiện cho vay....................................................................... 15 2.1.2.2 Quy định về quy trình thẩm định, phê duyệt và quyết định cho vay ......... 16 2.1.2.3. Quy định về quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay ................................................................................................................................. 19 2.2. Thực trạng pháp luật trong hoạt động cho vay của ngân hàng cho các dự án xanh, thân thiện với môi trường .................................................................................................. 24 2.3. Một số kinh nghiệm của quốc tế về hoạt động cho vay của ngân hàng với vấn đề môi trường ........................................................................................................................... 26 2.3.1. Nguyên tắc xích đạo (EP)...................................................................................... 26 2.3.2. Một số kinh nghiệm quốc tế khác ........................................................................ 29 Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường.............................................................................................................. 31 3.1. Xây dựng, ban hành hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay của các ngân hàng........................................................................................ 31 3.2. Tuyên truyền, nâng cao ý thức của các ngân hàng trong vấn đề bảo vệ môi trường .............................................................................................................................................. 33 3.3. Xây dựng hệ thống quản lý môi trường và vai trò của chính phủ ............................. 35 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 38 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 39
  6. Phần mở đầu I. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nhìn lại hơn 30 năm chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta thấy tự hào khi nền kinh tế của Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, thoát dần khỏi các nước kém phát triển và tiến lên trở thành nước có nền công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, ngoài những yếu tố tích cực mà phát triển kinh tế đem lại, Việt Nam cũng đang phải chịu những hậu quả nặng nề do mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại. Trong đó, vấn đề ô nhiễm môi trường là một vấn đề mang tính thời sự và nhức nhối hiện nay. Mỗi năm có hàng trăm vụ gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường xảy ra, mà chủ thể của các hành vi này hâu hết là các doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp trong vấn đề bảo vệ môi trường, cũng như các chế tài pháp lý để răn đe các chủ thể này. Tuy nhiên, có một chủ thể nắm một vai trò quan trọng trong các vụ gây ô nhiễm này lại chưa được nhắc đên một cách thỏa đáng, đó chính là các ngân hàng. Chủ thế cung cấp vốn chủ yếu cho các dự án đầu tư của doanh nghiệp qua nghiệp vụ cho vay, nắm quyền quyết định quan trọng trong việc triển khai dự án của các doanh nghiệp, nhưng trách nhiệm trong các vụ gây ô nhiễm môi trường của các ngân hàng vẫn chưa được xem xét một cách thích hợp và toàn diện. . Xuất phát từ tính cấp thiết đó, người viết đã chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường” II. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, khi xu thế tăng trưởng xanh đang lớn mạnh trên toàn thế giới, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện những đề tài nghiên cứu về tín dụng xanh, ngân hàng xanh. Đặc biệt, khi NHNN ban hành chỉ thị 03/2015 về tín dụng xanh để phù hợp với xu hướng phát triển xanh trên toàn thế giới, có rất nhiều đề tài nghiên cứu về ngân hàng xanh, tín dụng xanh. Ví dụ như: 1|Page
  7. - Đề tài “ Ngân hàng xanh-kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam” của tác giả Ths Vũ Thị Kim Oanh đăng trên tạp chí thị trường tiền tệ số 16 tháng 8/2015. - Đề tài “Xây dựng ngân hàng xanh tại Việt Nam” của tác giả NCS Nguyễn Hữu Huận đăng trên tạp chí phát triển và hội nhập số 14 tháng 01-02 năm 2014. - Đề tài “Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” xuất bản năm 2016 của bộ ba tác giả Trần Thanh Thủy, Nguyễn Hồng Anh và Nguyễn Việt Dũng trực thuộc Trung tâm con người và thiên nhiên. Các công trình nghiên cứu này tuy có nghiên cứu về tín dụng xanh, ngân hàng xanh và đề cập đến tác động, vai trò của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng tới môi trường nhưng chưa đi sâu nghiên cứu về cơ sở pháp lý cũng như thực trạng pháp luật về vấn đề này. Vì vậy, nghiên cưu về cơ sở pháp lý và thực trạng pháp luật về hoạt động cấp tín dụng và vấn đề môi trường là một yêu cầu rất cấp thiết và thực tế hiện nay. III. Mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu Khóa luận tốt nghiệp có mục đích nghiên cứu về những vấn đề lý luận trong hoạt động cho vay của các ngân hàng và vai trò của chúng trong vấn đề môi trường, từ đó chỉ ra các thực trạng đang tồn tại và tìm ra các biện pháp hoàn thiện, khắc phục. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng và quan hệ giữa hoạt động cho vay với vấn đề môi trường .Trong đó, tập trung nghiên cứu pháp luật về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng cho các dự án đầu tư có rủi ro môi trường IV: Phương pháp nghiên cứu đề tài: Khóa luận kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch, quy nạp; phương pháp thống kê, khảo sát, đánh giá, so sánh, đối chiếu tổng hợp….. 2|Page
  8. Các phương pháp này được sử dụng phối hợp hoặc xen kẽ để giải quyết những vấn đề cơ bản mà đề tài đặt ra, cụ thể là: - Các phương pháp phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch và quy nạp được sử dụng chủ yếu để giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của khoa luận. - Các phương pháp thống kê, khảo sát, đánh giá, so sánh, đối chiếu tổng hợp được sử dụng chủ yếu để đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về tác động từ hoạt động cho vay của ngân hàng tới môi trường, cũng như đề xuất một số biện pháp để hoàn thiện. V. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của khóa luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của các ngân hàng và mối quan hệ giữa hoạt động cho vay và vấn đề môi trường Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng trong mối quan hệ với vấn đề môi trường Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường 3|Page
  9. Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của các ngân hàng và mối quan hệ giữa hoạt động cho vay và vấn đề môi trường 1.1. Thực trạng môi trường hiện nay Môi trường là nguồn cung cấp các thành tố cơ bản cho hoạt động sống của con người như dưỡng khí, nước, protein và khoáng chất, đồng thời là nơi tiếp nhận các sản phẩm từ quá trình trao đổi chất trực tiếp cảu con người. Môi trường tự nhiên quy định cách thức tồn tại và phát triển của con người. Môi trường cũng cung cấp các nguồn lực kinh tế như đất đai, tài nguyên nước, năng lượng… để con người thực hiện các hoạt động sản xuất phục vụ cuộc sống, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận các phế thải kinh tế. Con người đóng vai trò là chủ thể chính của môi trường sống, tồn tại trong môi trường, sử dụng, khai thác và sử dụng các công cụ kĩ thuật, khoa học công nghệ tác động tới môi trường. Con người tác động tới môi trường theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, khi nhu cầu phát triển kinh tế cao, con người lại bất chấp tất cả để thu được lợi nhuận, để phục vụ cho cuộc sống của mình, điều đó dẫn đến các tác động có hại và nguy hiểm cho môi trường. Tại hội nghị Stockholm 1972, lần đầu tiên con người thừa nhận sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường, nhấn mạnh trách nhiệm của con người trong sự nghiệp bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tuyên bố Stockholm được thông qua tại hội nghị này lại không có tính bắt buộc thi hành, chỉ mang tính khuyến nghị, các quốc gia phát triển vẫn quyết tâm phát triển kinh tế theo hướng lợi nhuận mà không chú trọng đến môi trường. Các thảm họa môi trường vẫn xảy ra sau hội nghị này như thảm họa nguyên tử Chernobyl xảy ra tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Ukraina năm 1986, thảm họa rò rỉ thuốc trừ sâu tại Bhopal, Ấn Độ năm 1984, thảm họa hạt nhân xảy ra tại Mỹ năm 1979…Các thảm họa môi trường này đã gây ra thiệt hại lớn cho khu vực xảy ra và cả các khu vực lân cận cả về người và của, các thảm họa này cũng là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả thế giới biết hậu quả khủng khiếp mà sự cố môi trường có thể gây ra. 4|Page
  10. Cho đến ngày nay, thế giới đã diễn ra nhiều hội nghị, cuộc họp để bàn bạc về vấn đề môi trường, các điều ước quốc tế liên quan đến môi trường được sự kí kết và tham gia của nhiều nước, cả thế giới đều đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong khi các nước phát triển dành nhiều ngân sách để bảo vệ môi trường và xây dựng một môi trường sống xanh, sạch, đẹp thì các nước nghèo, các nước đang phát triển lại đua nhau tàn phá rừng, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên chỉ để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Vấn đề cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường vẫn là một bài toán khó dành cho các nhà quản lý tại các quốc gia này. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, và được dự báo là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc phát triển nền kinh tế theo hướng phụ thuộc nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, rừng, thủy điện đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường. Từ năm 1994 - 2010, tổng lượng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam tăng hơn 2 lần, từ 103,8 lên 246,8 triệu tấn CO2 tương đương. Ước tính đến năm 2020 tăng hơn 4 lần và năm 2030 tăng hơn 7 lần so với năm 1994 3,14] Trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000 m3 nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Trên 5.000 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng; hơn 4.500 làng nghề. [4,1] Các doanh nghiệp đầu tư vốn FDI có chiều hướng dịch chuyển dòng vốn vào các ngành tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường như luyện kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu khoáng sản không gắn với chế biến sâu, sản xuất bột giấy, sản xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm…; chưa đạt được mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ… Một số dự án FDI vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường như công ty Vedan, Miwon, Formosa, Công ty Lee&Men 5|Page
  11. Cuối năm 2016, Hiệp định Paris về Khí hậu chính thức có hiệu lực đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Hiệp định Paris về Khí hậu yêu cầu các Bên tham gia cam kết và không ngừng nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu có tính tham vọng cao là giữ mức tăng nhiệt độ trung bình vào cuối thế kỷ này dưới 2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, hướng tới mục tiêu giới hạn mức tăng ở 1,5 độ C. Đồng thời, Hiệp định Paris về Khí hậu cũng mang lại cơ hội cho các Bên trong việc rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật hướng tới mô hình phát triển các-bon thấp, thúc đẩy tăng cường liên kết khu vực, hợp tác giữa các quốc gia để hướng đến mô hình tăng trưởng phát thải ít các-bon ở phạm vi quốc gia và toàn cầu. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên đặt bút ký Hiệp định Pari vào ngày 22/4/2016. Việc tham gia ký kết cũng như sẽ sớm phê duyệt Thoả thuận này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Đồng thời, với việc tham gia ký kết Thoả thuận, Việt Nam có thể tận dụng được những cơ hội và chuyển hoá thách thức do biến đổi khí hậu gây ra thành những cơ hội mới, phục vụ phát triển đất nước theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững. Theo đó, đến năm 2030 bằng nguồn lực trong nước Việt Nam cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường và có thể tiết giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế. 1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường 1.2.1. Khái niệm cho vay và vai trò của hoạt động cho vay của các ngân hàng Ngân hàng là một trong những chế định tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mạn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. 6|Page
  12. Pháp luật Việt Nam định nghĩa ngân hàng gắn liền với hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng theo quy định của luật tổ chức tín dụng 2010 là “việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cấp tín dung và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” [12, điều 4] và ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng trên. Hoạt động cho vay là một phần hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống. Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” [12, điều 4] Hoạt động cho vay của ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với chính bản thân ngân hàng và các đối tượng, chủ thể khác của nền kinh tế từ đó tác động tới sự phát triển của nền kinh tế. Các vai trò chính của hoạt động cho vay của ngân hàng bao gồm:  Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng và thúc đẩy các hoạt động khác của Ngân hàng: Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động lớn của Ngân hàng doanh thu từ hoạt động này thường chiếm 70% doanh thu, ở các nước phát triển, hay đến 90% doanh thu của Ngân hàng, ở các nước đang phát triển. Hiện nay 80% doanh thu của các Ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng, mà hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn. Mặt khác, nhờ có hoạt động cho vay, mà các đơn vị kinh tế có thể vay của Ngân hàng để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận thu được không những doanh nghiệp đủ tiền trả cho Ngân hàng mà còn có tiền gửi vào Ngân hàng, nghĩa là làm tăng hoạt động huy động vốn của Ngân 7|Page
  13. hàng. Mặt khác khi sản xuất kinh doanh phát triển, xã hội phát triển thì các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển.  Hoạt động cho vay góp phần điều hoà cung- cầu dịch vụ hàng hoá: Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh, hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh mà thiếu vốn thì doanh nghiệp phải vay vốn của Ngân hàng. Nhưng doanh nghiệp chỉ thu được lợi nhuận cũng như có khả năng trả nợ Ngân hàng khi doanh nghiệp tiêu thụ được hết số sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra, hay phải có một bộ phận những người tiêu dùng mua và có khả năng mua sản phẩm đó.Về phía người tiêu dùng, với một mức thu nhập nhất định, họ không thể có đủ số tiền để mua hàng hoá mình muốn. Họ chỉ có đủ khả năng mua sau một thời gian dài tích luỹ. Đó là nguyên nhân dẫn đến chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn của doanh nghiệp bị ngưng trệ. Doanh nghiệp sẽ không thu hồi đủ tiền để thực hiện vòng quay sản xuất. Do đó Ngân hàng cho vay là giải pháp có lợi đôi bên. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thì sẽ có nhiều hàng hoá. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay sẽ thoả mãn nhu cầu hàng hoá. Như vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng đã góp phần điều hoà cung cầu sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế.  Hoạt động cho vay góp phần điều tiết và phân phối các nguồn vốn: Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện qua các hình thức khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, tạo thành chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình sản xuât kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi nguồn vốn của doanh nghiệp luôn đồng thời tồn tại ở ba giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những đơn vị tạm thời thiếu vốn. Đây là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kì nền kinh tế nào, làm nảy sinh nhu cầu ngày càng bức thiết 8|Page
  14. phải giải quyết được vấn đề điều hoà vốn. Ngân hàng thương mại với vai trò là một trung gian tài chính đứng ra tập trung phân phối lại tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp, đã góp phần điều tiết lại nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bị gián đoạn.  Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nhiều thành phần kinh tế, phần lớn nguồn vốn đi vay từ Ngân hàng để bắt tay vào ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (Ví dụ kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tới trên 70%). Do vậy bằng các chính sách cho vay, định hướng chung của nhà nước góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối. Bằng những công cụ tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng có thể cho vay ưu đãi những nghành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.  Hoạt động cho vay góp phần giúp các thành phần kinh tế mở rộng ứng dụng công nghệ mới Với những doanh nghiệp trình độ trang bị kĩ thuật còn thấp kém, công nghệ thấp kém, chắp vá, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp , làm cho các doanh nghiệp đó kém phát triển. Thông qua vốn vay của Ngân hàng, doanh nghiệp dùng đồng vốn này để đầu tư, tìm kiếm những công nghệ hiện đại, đổi mới dây truyền sản xuất,nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn nhu cầu trong và ngoài nước. Như vậy hoạt động cho vay mở rộng ứng dụng công nghệ mới vào các doanh nghiệp, thông qua đó giúp doanh nghiệp sản xuất ngày càng có hiệu quả, mở rộng sản xuất kinh doanh. Vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng đối với nền kinh tế là rất quan trọng. Trong từng giai đoạn thời kỳ phát triển của nền kinh tế, ngân hàng đều đóng vai trò rất quan trọng, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng kéo theo hàng hệ lụy cho nền kinh tế và xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế đều xuất phát từ các cuộc khủng hoảng tài chính, trong đó các ngân hàng là một nhân tố chính. Vì vậy, trong 9|Page
  15. xu hướng phát triển kinh tế bền vững hiện nay, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường sống, ngân hàng cũng không thể phủ nhận vai trò của mình. Với nghiệp vụ cho vay của mình, ngân hàng có thể tác động đến công cuộc bảo vệ môi trường đang được toàn xã hội quan tâm hiện nay. 1.2.2. Mối quan hệ giữa hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường Hệ thống tài chính có một vai trò quan trọng trong thúc đẩy việc thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường tại Việt Nam. Trong đó, ngân hàng với vai trò là trung tâm của hệ thống tài chính quốc gia, không thể phủ nhận vai trò của mình trong vấn đề này. Tuy nhiên, các ngân hàng ở Việt Nam hầu hết vẫn còn thờ ơ với vai trò và trách nhiêm này của mình. Họ vẫn chú trọng vào cho vay đầu tư đối với các dự án lớn, các dự án có khả năng đem lại lợi nhuận và đảm bảo khả năng thanh toán cao. Các chính sách và pháp luật vẫn mang tính chất định hướng và khuyến khích. Vai trò và trách nhiệm của các doanh nghiệp trực tiếp đầu tư vào các dự án kinh tế có nguy cơ tác động tới môi trường đã được xem xét, cũng như có các ràng buộc nhất định bằng mặt pháp lý nhưng ngân hàng với tư cách là nơi cung cấp vốn chủ yếu cho các dự án đầu tư của các doanh nghiệp lại chưa được xem xét một cách đúng mực cũng như chưa có các quy định cần thiết. Theo một nghiên cứu mới công bố do Rainforest Action Network (RAN, tổ chức môi trường có trụ sở tại Mỹ), nhóm cộng đồng Tuk Indonesia và Công ty tư vấn Profundo của Hà Lan thực hiện, các ngân hàng đã cung cấp nguồn tài chính lên tới hàng tỷ USD cho các doanh nghiệp liên quan tới tình trạng phá hủy các khu rừng nhiệt đới ở Đông Nam Á [2]. Báo cáo này công bố các thông tin về vốn vay và các ngân hàng cho vay đối với 8 công ty từng có tiền lệ vi phạm các tiêu chuẩn môi trường và xã hội trong hoạt động của họ đối với rừng nhiệt đới ở Đông Nam Á. 8 công ty được nêu đích danh là: Felda Global Ventures, Indofood, IOI, Wilmar, Asia Pulp and Paper,Oji Holdings, Marubeni, and Itochu. Các công ty này đã nhận được tới 28,56 USD cho các dự án tại các khu vực rừng nhiệt đới 10 | P a g e
  16. Đông Nam Á từ hoạt động cho vay của các ngân hàng như Sumitomo Mitsui financial group, Mizuho Financial, Mitsubishi UFJ financial, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, RHB Banking, CIMB Group & HSBC [13, tr.3]. Cũng theo một báo cáo được công bố do Rainforest Action Network (RAN) từ năm 2013 đến 2015, 25 ngân hàng lớn trên thế giới đã đổ hàng nghìn tỉ đô la vào các dự án khai thác nhiên liệu hóa thạch, cụ thể 42.39 tỉ đô la vào ngành khai thác than đá, 154 tỉ đô la vào 20 nhà máy nhiệt điện lớn nhất, 306 tỉ đô la cho các công ty khai thác dầu cực đoan, 282 tỷ đô la cho các công ty xây dựng cơ sở hạ tầng xuất khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng [14, tr.5]. Các ngành này đều nằm trong các ngành có rủi ro cao với môi trường trong danh mục hướng dẫn môi trường và xã hội của IFC và ngân hàng thế giới. Ở Việt Nam, các ngân hàng cũng dành nhiều ưu đãi và vốn cho các dự án năng lượng và khai thác khoáng sản. Trong đó, ngân hàng Vietcombank có dư nợ tín dụng đối với ngành năng lượng là 25000 tỉ, ngành khoáng sản 20000 tỉ trong khi ngành nông nghiệp chỉ có 2000 tỷ [17, tr.36]. Viettinbank dành tới 38% dư nợ tín dụng cho các ngành khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất và phân phối điện, trong khi ngành nông, lâm nghiệp chỉ chiếm 5 % dư nợ tín dụng của ngân hàng này[18, tr.51] Các báo cáo trên cho thấy, các ngân hàng trên thế giới và kể cả Việt Nam vẫn đang chú trọng cấp vốn cho các ngành công nghiệp năng lượng, khai khoáng, những ngành đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhưng lại gây rủi ro cao cho môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh cấp vốn cho các dự án này thì các ngân hàng cũng tham gia cấp vốn cho các dự án thân thiện với môi trường, mặc dù dư nợ tín dụng cho các ngành này còn thấp, nhưng cũng đã góp phần xây dựng và triển khai được một số dự án xanh vì môi trường. Với nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiệu quả và sạch hơn, năm 2012 Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, và Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng 11 | P a g e
  17. xanh giai đoạn 2014-2020. Thực hiện chiến lược này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao nhiệm vụ hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục vụ tăng trưởng xanh. Theo đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động tín dụng (tháng 3/2015) và Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh đến năm 2020 (tháng 8/2015). Các chính sách này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động xây dựng chính sách quản lý rủi ro MT-XH cũng như thực hiện các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh. Tuy nhiên, đến năm 2016 mới chỉ có 3 ngân hàng đã hoặc đang xây dựng các chính sách nội bộ về quản lý rủi ro MT-XH. Việc các ngân hàng chưa quan tâm tới các tiêu chuẩn môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay, một phần là do pháp luât Việt Nam chưa có các quy định đầy đủ liên quan trực tiếp tới việc các ngân hàng cần phải cân nhắc tới những rủi ro về môi trường và xã hội đối với những khoản vay tín dụng. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật chỉ tập trung vào trách nhiệm của những đơn vị trực tiếp gây ô nhiễm. Việc này đã dẫn đến tâm lý chủ quan của các cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định mà chưa chú trọng đến đánh giá các rủi ro về môi trường. Việc kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu thẩm định tín dụng có thể hạn chế những rủi ro về mặt môi trường, xã hội thông qua việc quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay vốn đối với những dự án có những dấu hiệu xấu. Do đó, một quy định có tính chất pháp lý có vai trò rất quan trọng để xác định những trách nhiệm liên đới của các ngân hàng trước sự cố môi trường. Từ đó, các ngân hàng sẽ cần phải cẩn trọng hơn trước những quyết định cho vay của mình để tín dụng vừa có thể đến tay nhà đầu tư một cách “chất lượng”, vừa đảm bảo được những điều kiện ràng buộc với pháp luật về các tiêu chí xanh, thân thiện với môi trường sống. 12 | P a g e
  18. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng trong mối quan hệ với vấn đề môi trường 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay đối với các dự án đầu tư có rủi ro môi trường cao Đối với các dự án có rủi ro cao đối với môi trường, pháp luật về môi trường của Việt Nam đã có những quy định khá chặt chẽ và chi tiết về quy trình thẩm định, phê duyệt và thực hiện bản đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và bản kế hoạch bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong các quy định này, vai trò của ngân hàng trong cả quá trình xây dựng, giám sát thực hiện các bản đánh giá này chưa được nhắc đến. Trong các quy định về quy trình cấp vốn của ngân hàng, bao gồm các quy định về điều kiện cho vay, các nhu cầu vốn không được vay, quy định về thẩm định, phê duyệt quyết định cho vay, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và các trường hợp chấm dứt cho vay, yếu tố môi trường vẫn chưa được quy định lồng ghép vào các quy định chính. 2.1.1. Quy định về vai trò của ngân hàng trong quá trình thẩm định, phê duyệt và thực hiện các bản cam kết bảo vệ môi trường Nghị định 18/2015/NĐ-CP của chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường đã có những quy định khá chi tiết về quy trình thẩm định, phê duyêt, thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường trên đã được quy định trong Luật bảo vệ môi trường 2014. Trong đó, điều 20 của nghị định này đã quy định về chế độ tài chính trong lĩnh vực này. Theo đó, nguồn chi phí thực hiện đánh giá tác động môi trường được lấy từ nguồn đầu tư của dự án, nguồn chi phí thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường cũng được bố trí từ nguồn đầu từ của dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Vậy, nguồn đầu tư của dự án được huy động chủ yếu từ nguồn nào? Câu trả lời chính là từ các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu từ nghiệp vụ cho vay của chính các ngân hàng. 13 | P a g e
  19. Vì vậy, việc các ngân hàng chưa quan tâm đến vấn đề môi trường sẽ ảnh hưởng tới kết quả thực hiện các bản cam kết môi trường của các chủ dự án. Nếu ngân hàng chỉ cung cấp vốn và không tham gia vào quá trình sử dụng vốn của chủ dự án cho mục đích thực hiện các bản cảm kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt thì kết quả thực hiện các bản cam kết này chỉ đạt được hiệu quả phụ thuộc vào ý thức của các chủ dự án. Những quy định pháp luật chi tiết hơn về vai trò, trách nhiệm của ngân hàng trong vấn đề giám sát quá trình sử dụng vốn của các chủ dự án cho mục đích thực hiện các bản cam kết bảo vệ môi trường là rất cần thiết. Bởi, các quy định pháp luật hiện tại mới dùng những từ ngữ rất chung chung như “Lấy ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia liên quan” [5, điều 10] mà chưa chỉ rõ cụ thể tổ chức, cá nhân nào. Trong các quy định về tham vấn ý kiến cộng đồng mới chỉ dừng lại ở mức khuyến khích hoặc hình thức, trách nhiệm thẩm định và phê duyệt vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trách nhiệm thực hiện các cam kết đã được phê duyệt trong các bản cảm kết bảo vệ môi trường mới chỉ thuộc về các chủ dự án. Trong khi trách nhiệm của các bên liên quan trong đó có ngân hàng là bên cung cấp vốn chưa được quy định. Đây là một lỗ hổng khiến cho các ngân hàng chưa mặn mà với đánh giá rủi ro môi trường và xã hội khi tiến hành cấp vốn đầu tư cho các dự án. 2.1.2. Quy định về quy trình cho vay của ngân hàng đối với các dự án có rủi ro cao với môi trường Chỉ thị 03/2015/CT-NHNN về triển khai tín dụng xanh đã mở ra những hi vọng mới trong việc xây dựng một hệ thống tín dụng ngân hàng xanh hơn, phục vụ cho xu hướng tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường sống. Tuy nhiên, mặc dù đã ban hành gần 2 năm nhưng những hiệu quả mà chỉ thị này mang lại còn rất khiêm tốn. Một nguyên nhân khiến cho hiệu quả của chỉ thị này không cao được cho là do chỉ thị này mới dừng lại ở mức độ khuyên khích, chưa bắt buộc thực hiện, vẫn phụ thuộc vào nhận thức của bản thân các ngân hàng. 14 | P a g e
  20. Bên cạnh đó, quy chế cho vay dành cho các tổ chức tín dụng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được ban hành kèm theo thông tư 39/2016/TT- NHNN được ban hành sau chỉ thị 03/2015/CT-NHNN nhưng lại không cụ thể hóa các quy định tại chỉ thị này. Quy chế cho vay này mang tính bắt buộc thực hiện, các ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định tại quy chế này. Vì vậy, nếu lồng ghép được các quy định tại chỉ thị 03 vào quy chế cho vay này sẽ đem lại những hiệu quả thực tế cao hơn, khiến các ngân hàng phải cân nhắc kỹ hơn trong quyết định cho vay của mình, nếu không muốn vi phạm pháp luật và gây ảnh hưởng tới uy tín của mình. 2.1.2.1. Quy định về điều kiện cho vay Tại quy chế cho vay ban hành kèm theo thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về điều kiện vay vốn như sau: “Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau đây: 1. Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. 2. Nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp. 3. Có phương án sử dụng vốn khả thi. 4. Có khả năng tài chính để trả nợ”. [10, điều 7] Những quy định về điều kiện cho vay là nguồn để các ngân hàng xây dựng các quy trình cho vay sau này. Dựa vào các quy định về điều kiện cho vay, các ngân hàng sẽ cụ thể hóa các điều kiện này trong các quá trình thẩm định, phê duyệt, cho vay và giám sát. Tuy nhiên, nhìn vào những quy định trên có thể thấy, pháp luật ngân hàng vẫn mới dừng lại tại những quy định chuyên ngành, tức chỉ mới nhằm mục đích bảo đảm cho khả năng thu hồi nợ của các ngân hàng. Các yếu tố 15 | P a g e
nguon tai.lieu . vn