Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THỊ PHƢƠNG MAI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬT TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THỊ PHƢƠNG MAI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-L Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Hoài Phương HÀ NỘI, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu trong Khóa luận được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi. Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020 Người thực hiện Khóa luận HỒ THỊ PHƢƠNG MAI i
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn người đã hướng dẫn tôi là TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, cô đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những nhận xét, góp ý những sai sót của tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô thuộc Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy cho tôi trong quá trình học tập. Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của các Thầy, Cô để bài Khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020 Người thực hiện Khóa luận HỒ THỊ PHƢƠNG MAI ii
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. Luật HN&GĐ năm 2014 : Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 2. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP : Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo 3. BLHS năm 2015 : Bộ luật Hình sự năm 2015 4. TTTON : Thụ tinh trong ống nghiệm iii
  6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ .......... 6 1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ ............................................................. 6 1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ” ......................................... 6 1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ ..................................................... 8 1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ ....................... 10 1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 10 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 12 1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................... 13 1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người ... 13 1.3.2. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang giá trị nhân văn sâu sắc ..... 14 1.3.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kết quả ứng dụng thành công thành tựu khoa học kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của lĩnh vực y học . 14 1.3.4. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp duy trì nòi giống .................. 15 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 17 2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ................... 17 2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia trên thế giới ..................................................................................................... 17 2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam....... 23 2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay ...................... 25 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong lĩnh vực mang thai hộ ...................................................................................... 46 2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng iv
  7. mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 .. 46 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực cho đến nay ............................................................................................... 49 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 61 3.1. Giải pháp đơn giản hóa quá trình hoàn thiện hồ sơ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”................................................................................................. 61 3.2. Giải pháp giúp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đáp ứng đủ “điều kiện mang thai hộ vì mục đích mang thai hộ”....................................... 63 3.4. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định về “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan .................. 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70 v
  8. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hiện nay, tình trạng vô sinh ở cả nam giới và nữ giới ngày càng nhiều do các yếu tố tác động như bệnh lý, căng thẳng kéo dài, do môi trường, thói quen sinh hoạt, vệ sinh an toàn thực phẩm… Theo nghiên cứu trên toàn quốc do Bệnh viện Phụ sản trung ương và Đại học Y Hà Nội tiến hành trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 08 tỉnh - đại diện cho 08 vùng sinh thái ở nước ta - cũng xác định tỉ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ là 7,7%, nghĩa là có từ 700.000 đến 1 triệu cặp vợ chồng Việt Nam bị vô sinh [9]. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều tiến bộ trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã ra đời đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có thể có con, đáp ứng niềm mong mỏi tha thiết của họ. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ không có khả năng mang thai hoặc sinh con thì kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là phương pháp TTTON có thể giúp họ có được đứa con chung huyết thống nhưng chỉ trong trường hợp pháp luật cho phép mang thai hộ. Khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 quy định về sinh con bằng phương pháp khoa học, tức là, pháp luật cho phép thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để giúp các cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân có thể có con, nhưng lại nghiêm cấm kỹ thuật này thực hiện cho người phụ nữ không có khả năng mang thai hoặc sinh con dù độc thân hay là người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh trong việc mang thai hộ. Điều này đã khiến cho việc mang thai hộ dễ bị thương mại hóa, các dịch vụ mang thai hộ càng diễn ra “sôi động” và tinh vi hơn vì họ nắm được tâm lý khát khao có được đứa con máu mủ của những người này. Quá trình mang thai hộ có rất nhiều rủi ro dễ xảy ra tranh chấp cũng như vấn đề pháp lý liên quan đến đứa trẻ sinh ra trong trường hợp này. Để có cơ sở quản lý xã hội cũng như ổn định các vấn đề liên quan đến dân số, đảm bảo các quyền cơ bản 1
  9. của con người, pháp luật đã thừa nhận mang thai hộ nhưng phải vì mục đích nhân đạo và nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại. Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, có hiệu lực ngày 01/01/2015, cùng với đó là Nghị định số 10/2015/NĐ-CP để hướng dẫn thi hành. Trong đó, pháp luật vẫn tiếp tục ghi nhận hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là thụ tinh nhân tạo và kỹ thuật TTTON, tuy nhiên kỹ thuật thụ tinh nhân tạo được thực hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, còn Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì quy định chi tiết về sinh con bằng kỹ thuật TTTON và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận và cho phép mang thai hộ, do đó, việc nghiên cứu và làm rõ hơn pháp luật mang thai hộ là điều cần thiết nên em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mang thai hộ là một vấn đề không mới và đã xuất hiện khá lâu trong xã hội. Tuy nhiên, thời điểm trước kia do không được pháp luật thừa nhận và cho phép nên việc mang thai hộ bị biến tướng và được thực hiện trái pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau. Pháp luật luôn điều chỉnh và thay đổi để phù hợp với thực tế đời sống, sự phát triển của y học thế giới và quan trọng là đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của con người. Do đó, Quốc hội thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Ngay khi có dự thảo luật sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 thì sức nóng của vấn đề mang thai hộ nhanh chóng được cập nhập trên các phương tiện truyền thông, báo đài, tin tức thời sự, có thể kể đến như: “Mang thai hộ: nên cho phép để kiểm soát tốt” trên báo phunuonline.com.vn ngày 17/8/2013; “ Đưa mang thai hộ vào luật” trên duthaoonline.quochoi.vn; “Chính thức cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” trên báo http://hn.24h.com.vn/ ngày 19/06/2014; “Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ thuê còn diễn ra?” trên trang web http://www.luattrungnguyen.vn/ ngày 12/07/2014; “Mang thai 2
  10. hộ: Cửa đã mở, nhưng mới hé ?” trên trang web http://vietnamnet.vn/ ngày 30/12/2014; “Mang thai hộ: Có luật nhưng vẫn khó khăn” trên Báo tuổi trẻ online ngày 13/05/2015… Điểm chung của các bài viết này đều nêu lên thực trạng thực hiện pháp luật của hoạt động mang thai hộ , gợi mở vấn đề, nêu ra một số hạn chế của pháp luật, đánh giá sơ bộ mang tính chất thông báo về quy định mới của pháp luật tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá để làm rõ hơn về những quy định mà pháp luật đưa ra. Về công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực mang thai hộ chủ yếu đến từ các bài viết trên tạp chí chuyên ngành và luận văn thạc sĩ, tiêu biểu như: - Tạp chí Luật học: “Pháp Luật về mang thai hộ ở Việt Nam” của PGS. TS Nguyễn Văn Cừ (2016); - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật: “Một số bất cập trong các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” của tác giả Nguyễn Huy Cường (2016); - Nội san Y học sinh sản: “Mang thai hộ - Những điều cần biết” của ThS. Hồ Mạnh Tường (2014); - Luận văn Thạc sĩ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” của tác giả Bùi Quỳnh Hoa (2014), Trường Đại học Luật Hà Nội; - Luận văn Thạc sĩ: “Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014” của tác giả Phạm Thị Hương Giang (2015), Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội. Ngoài ra, còn có các bài bình luận khoa học được đăn tải trên Internet. Tất cả, đã giúp vấn đề mang thai hộ được khái quát, mở rộng hơn theo nhiều góc nhìn khác nhau và nhiều vấn đề liên quan được nêu ra. Qua các góc nhìn đó, nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay” này sẽ tổng hợp, chỉ ra những vướng mắc còn tồn động và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ. 3
  11. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về mang thai hộ như: khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của mang thai hộ; cơ sở của việc pháp luật quy định mang thai hộ; nội dung các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về mang thai hộ và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là về các vấn đề trong lĩnh vực mang thai hộ trên các phương diện như lý luận khoa học, lịch sử hình thành, pháp luật về mang thai hộ và thực tiễn áp dụng pháp luật mang thai hộ từ trước và sau khi hoạt động mang thai hộ được luật hóa vào năm 2014 trên lãnh thổ Việt Nam. Song, trọng tâm nghiên cứu khóa luận này là thực trạng áp dụng pháp luật về mang thai hộ để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, phạm vi đề tài còn được mở rộng khi nghiên cứu pháp luật về mang thai hộ ở một số quốc gia tiêu biểu để đối chiếu với lịch sử hình thành và pháp luật về mang thai hộ Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp chung của khoa học xã hội và các phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phương pháp chủ yếu bao gồm: - Phương pháp phân tích quy phạm: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để tìm hiểu các quy định của pháp luật, cũng như các vụ việc liên quan tới xác định ngữ nghĩa của quy phạm pháp luật, tính hợp lý khi áp dụng. - Phương pháp phân tích lịch sử: phương pháp này dùng để sử dụng nhằm khái quát quá trình hình thành chế định mang thai hộ ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp, liệt kê, tổng hợp,… để đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài a. Mục đích nghiên cứu 4
  12. Khóa luận nghiên cứu phân tích, làm rõ nội dung quy định về mang thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014, chỉ ra thực trạng pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật khi những quy định về mang thai hộ được áp dụng vào trong cuộc sống. Từ đó, kiến nghị giải pháp khắc phục. b. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định như sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về mang thai hộ như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của mang thai hộ; Phân tích, đánh giá những quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 về mang thai hộ; Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài các phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận bao gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về mang thai hộ. Chương 2: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay. 5
  13. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ 1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ 1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ”  “Mang thai hộ” dưới góc nhìn xã hội (chưa có Luật HN&GĐ năm 2014) Ở Việt Nam, trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành thì các khái niệm “mang thai hộ”, “chửa hộ”, “đẻ thuê” thường bị đánh đồng với nhau, nội dung và ý nghĩa của chúng không có sự tách biệt nhất định. Và phần đông mọi người hiểu “mang thai hộ” giống “đẻ thuê” là khi người đàn ông (người chồng) quan hệ trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với một người phụ nữ (không phải là vợ) đến khi người phụ nữ này có thai và sinh con. Trong trường hợp này đứa trẻ sinh ra bằng tinh trùng của người đàn ông (người chồng) và noãn của người phụ nữ (không phải là vợ). Cách hiểu này đã làm cho ý nghĩa của việc “mang thai hộ” trở nên sai lệch, trái với thuần phong mỹ tục và đi ngược lại với giá trị con người.  “Mang thai hộ” dưới góc nhận định của các chuyên gia Theo ThS.BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và Sức khỏe sinh sản, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết: “Mang thai hộ là phương pháp giải quyết vấn đề không thể có con ở người phụ nữ do tử cung nên cần nhờ đến tử cung của người khác. Đến nay, kỹ thuật này đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng nó đang là vấn đề gây tranh cãi giữa các trường phái tư tưởng, văn hóa khác nhau”.[34] Theo Tiến sĩ Luật học Nguyễn Văn Cừ, Phó giáo sư Trường Đại học Luật Hà Nội, trong bài viết “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016, số 6 có đề cập:“Thuật ngữ “mang thai hộ” được định nghĩa là phương pháp hỗ trợ sinh sản áp dụng khi người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi đã 6
  14. thực hiện kí thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Vì vậy, người mang thai hộ không có liên quan về di truyền với đứa trẻ mà mình nuôi dưỡng trong cơ thể và sinh ra đứa trẻ đó”.[26, tr.11] Trong bài viết “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2016, số 2, ThS. Trần Đức Thắng có nêu quan điểm của mình như sau:“Mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện. Thỏa thuận mang thai hộ được xác lập giữa một cặp vợ chồng và người mang thai hộ, đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên”.[35, tr.58]  “Mang thai hộ” dưới góc độ pháp lý Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra khái niệm: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Khi pháp luật thừa nhận việc mang thai hộ và định nghĩa rõ ràng nội hàm của mang thai hộ thì khái niệm mang thai hộ đã tách biệt và có nội dung hoàn toàn khác với “đẻ thuê”, “đẻ mướn”. Tức là, mang thai hộ bắt buộc phải là trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng trong cặp vợ chồng hiếm muộn, sau khi được TTTON thành phôi thì cấy vào tử cung của người mang thai hộ, khác hoàn toàn với việc đẻ thuê là người đẻ thuê giao phối trực tiếp với người chồng và không sử dụng bất kỳ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nào. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa “mang thai hộ” và “đẻ thuê”. Khái niệm “mang thai hộ” dưới góc nhìn của các chuyên gia dù là trong lĩnh vực y tế hay luật học thì đều có tính chất chuyên môn cao, dẫn đến khó 7
  15. hiểu cho người đọc. Đối với khái niệm “mang thai hộ” trong Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra không chỉ cụ thể, hoàn chỉnh và dễ tiếp nhận cho người đọc mà còn thể hiện rõ nội dung mà pháp luật cho phép khi thực hiện hoạt động mang thai hộ, đó là: - Thứ nhất, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người phụ nữ tự nguyện mang thai hộ cho cặp vợ chồng vô sinh không vì các giá trị vật chất, tiền bạc hay yếu tố kinh tế nào khác. - Thứ hai, phương pháp thực hiện mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, tức là việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ nhờ mang thai hộ để người này mang thai và sinh con. - Thứ ba, đối tượng được phép nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng hiếm muộn và mục đích của hoạt động mang thai hộ là mang tính nhân đạo, dành cho người phụ nữ không thể tự mình sinh con. Phụ nữ độc thân có thể xin tinh trùng và TTTON để có đứa con cùng huyết thống, tuy nhiên, pháp luật không thừa nhận phụ nữ độc thân không có khả năng mang thai và sinh con được nhờ mang thai hộ. 1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà Lan vào năm 2012 rút ra kết luận: Các thiết chế trên thế giới quy định về hoạt động “mang thai hộ” đang được chia ra làm bốn nhóm: Nhóm nước chưa có quy định; nhóm nước phản đối; nhóm nước cho phép vì mục đích nhân đạo và nhóm các nước chấp thuận thương mại hóa [41]. Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ lại được chia ra làm hai nhóm nước: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Trong Luật HN&GĐ năm 2014 tại khoản 23 Điều 3 cũng phân ra hai hình thức là “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “mang thai hộ vì mục đích thương mại”. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hoạt động này dưới góc độ nhân đạo. Cụ thể như sau: 8
  16. a. Mang thai vì mục đích thƣơng mại Mang thai hộ vì mục đích thương mại là khi người phụ nữ chấp nhận mang thai cho bên thuê mang thai hộ rồi sinh con, sau khi trao đứa con lại cho bên nhờ mang thai hộ. Người phụ nữ sẽ được bên nhờ mang thai hộ trả cho một khoản tiền hoặc sẽ đáp ứng bằng một lợi ích nào đó mà hai bên đã thỏa thuận trước đó. Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại. Việc mang thai hộ phải được tuân thủ chặt chẽ quy định tại các điều khoản của Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP. Khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau: “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi ích về kinh tế hoặc lợi ích khác”. Khái niệm này đầy đủ và hoàn toàn đúng theo cách hiểu về việc thương mại hóa mang thai hộ ở một số quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia đó mang thai hộ giống như một dịch vụ tự do trao đổi giữa các bên với sự có “cầu” ắt có “cung”. Có thể thấy, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại chính là một loại hợp đồng đẻ thuê. Sau khi giao kết hợp đồng, hai bên phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo bản hợp đồng đó. Bản hợp đồng này là hợp đồng công việc cần làm với đối tượng trao đổi là đứa trẻ và lợi ích. Vô hình chung, bản hợp đồng đã khiến đứa trẻ trở thành hàng hóa có thể trao đổi. Điều này vi phạm quyền con người và việc trao đổi theo hợp đồng giống như việc mua bán trẻ con vi phạm luật quốc tế. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam không cho phép việc mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, không ít trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục đích mà nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ. Thực tế cho thấy, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại vốn dĩ đã tồn tại từ rất lâu dù vi phạm pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội. 9
  17. b. Mang thai vì mục đích nhân đạo Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khi người vợ, vì lý do sức khỏe, bệnh lý mà không thể mang thai nhưng có trứng; tham gia vào quan hệ mang thai hộ với mong muốn được làm mẹ và người phụ nữ được nhờ mang thai hoàn toàn tự nguyện để giúp đỡ người vợ thực hiện chức năng làm mẹ, tất nhiên có hoặc không có bồi dưỡng trong quá trình mang thai nhưng tuyệt nhiên không vì mục đích kiếm lợi. Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” (như đã trình bày ở phần trên). Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định rất rõ các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với các bên tham gia thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cũng như các thủ tục pháp lý trong quá trình làm hồ sơ xin xét duyệt mang thai hộ. Pháp luật cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng đủ điều kiện để bảo đảm quyền làm cha, làm mẹ chính đáng của những cặp vợ chồng vô sinh và người mang thai hộ không vì mục đích lợi nhuận. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh của xã hội. Có thể đánh giá quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật HN&GĐ năm 2014 là bước tiến bộ vượt bậc trong tư duy làm luật, trong nhận thức về việc cho phép ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực sản khoa nói riêng và trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm quyền dân sự, hôn nhân và gia đình của cá nhân nói chung. 1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ 1.2.1. Cơ sở lý luận Thứ nhất, về mặt khoa học kỹ thuật, mang thai hộ được thực hiện trên cơ bản là kỹ thuật TTTON thông thường, nên không phức tạp về mặt kỹ 10
  18. thuật. Người vợ trong cặp vợ chồng có nhu cầu nhờ mang thai hộ sẽ được kích thích buồng trứng, theo dõi và chọc hút noãn. Noãn sẽ được thụ tinh với tinh trùng người chồng để tạo phôi. Phôi có thể được chuyển vào tử cung người mang thai hộ đã được chuẩn bị bằng nội tiết hoặc phôi sẽ được đông lạnh và sẽ được rã đông và cấy vào tử cung người nhận mang thai hộ vào thời điểm thích hợp. Người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đảm bảo có đủ tinh trùng để TTTON và người vợ phải có dự trữ buồng trứng đủ để cho việc thực hiện TTTON. [9] Năm 2011, với sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu về di truyền và sức khỏe sinh sản (khoa Y Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam trở thành một trong bốn trung tâm đào tạo về hỗ trợ sinh sản lớn nhất của Châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc) và hiện mỗi năm tiếp nhận đào tạo, huấn luyện đào tạo cho nhiều bác sỹ nước ngoài [2, tr.16]. Hiện nay cả nước có 21 cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được Bộ Y tế ra quyết định công nhận, trong đó có 05 cơ sở trên cả nước được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm Bệnh viện Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế [19]. Mặt khác, chi phí một ca TTTON ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3 với khu vực và 1/6 -1/8 so với Mỹ, cụ thể chi phí để điều trị TTTON (thủ thuật và thuốc) ở Việt Nam khoảng 2.000-3.000 USD trong khi ở những nước trong khu vực dao động từ 8.000- 12.000 USD. [39] Mang thai hộ cũng được coi là một trong những phương pháp hỗ trợ sinh sản dành cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Kỹ thuật chính cần dùng trong mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, đây là kỹ thuật về y tế đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao mà Việt Nam đã có các trung tâm hỗ trợ sinh sản, bệnh viện phụ sản hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ để thực hiện với chi phí hợp lý. Với đầy đủ cơ sở vật chất, nguồn nhân lực được đào tạo mỗi năm, mang thai hộ hoàn toàn có thể thực hiện được và chỉ còn 11
  19. mang tính chất phức tạp trong mặt quan niệm và các thủ tục pháp lý, quyền cũng như lợi ích của các bên liên quan. Thứ hai, về mặt pháp lý, Luật HN&GĐ năm 2014 tạo ra cơ chế pháp lý khá hoàn chỉnh cho việc mang thai hộ, cụ thể là từ Điều 93 đến Điều 100 về Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ. Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở khu vực Đông Nam Á ban hành riêng Nghị định của Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa học (kỹ thuật hỗ trợ sinh sản). Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và các văn bản có liên quan đã tạo hành lang pháp lý quan trọng giúp cho hoạt động tư vấn, khám và điều trị của các cán bộ y tế tư vấn được thuận lợi; các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ đơn thân muốn mang thai có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa các quy định pháp lý về mang thai hộ nhằm bảo đảm cơ chế, giải quyết hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ; bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ, bảo vệ bên mang thai hộ và nhờ mang thai hộ. Nghị định cũng đã bao phủ được hầu hết các vấn đề liên quan đến hỗ trợ sinh sản. Các quy định của Nghị định phù hợp với các bằng chứng khoa học và pháp luật trong nước cũng như quốc tế. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Nhu cầu mang thai hộ trên thực tế là khá phổ biến. Việc pháp luật không cho phép đẻ thuê/mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ dẫn đến tình trạng bác sĩ tại Việt Nam không dám/và không được phép thực hiện vì sẽ là vi phạm pháp luật. Những người có nhu cầu thì đi tìm những dịch vụ chui hoặc 12
  20. ra nước ngoài để thực hiện mang thai hộ. Việc sử dụng những dịch vụ chui vừa tốn kém, vừa trái pháp luật, vừa rủi ro mà quyền và lợi ích của người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ hay đứa trẻ cũng không được bảo đảm. Khi có tranh chấp giữa các bên phát sinh trong dịch vụ chui, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị động do không có cơ sở pháp lý để xử lý, vì đây là hợp đồng không hợp pháp. Các nguyên nhân gây vô sinh có nguyên nhân do tử cung người vợ bị tật bẩm sinh hoặc do các bệnh lý khác khiến cho người phụ nữ không thể mang thai được ngày càng trở nên phổ biến. Mặc dù, áp dụng phương pháp sinh con theo phương pháp khoa học, người chồng có tinh trùng, người vợ có noãn nhưng họ cũng không thể có con được. Họ rất cần người mang thai hộ để có thể có được chính những đứa trẻ do chính tinh trùng và noãn của họ tạo nên, đây là nhu cầu chính đáng và cần thiết. Hơn nữa, việc cho phép mang thai hộ là một giải pháp mang tính nhân văn nhằm tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con để thực hiện được quyền làm cha, mẹ. Nếu không được quy định trong luật thì do nhu cầu có con nên họ vẫn thực hiện mang thai hộ và họ làm tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam (làm chui) dẫn tới các hậu quả sẽ xảy ra: Tình trạng đẻ thuê (vì mục đích thương mại); không đảm bảo an toàn sức khỏe, tính mạng cho đứa trẻ và người mang thai hộ; quyền lợi của người mang thai hộ và quyền lợi của đứa trẻ sẽ không được đảm bảo; phát sinh tranh chấp vì không có quy định chặt chẽ của pháp luật. Do vậy, việc pháp luật cần ghi nhận, hợp pháp hoá mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hết sức cần thiết. 1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo 1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người Công nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc làm mang tính nhân văn, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người, đảm bảo cho con người được hưởng các quyền dân sự cơ bản, quyền đảm bảo chất lượng sống, quyền hôn nhân và mưu cầu hạnh phúc. 13
nguon tai.lieu . vn