- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Hoàn thiện thể chế và tiếp cận thị trường khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP)
Xem mẫu
- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VÀ TIẾP CẬN
THỊ TRƯỜNG KHI THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
ThS.NCS. Trần Văn Duy
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Tóm tắt
Hiệp định TPP vừa kết thúc quá trình đàm phán thành công. Việt Nam cần
phải thực hiện đánh giá tác động của TPP với việc hoàn thiện thể chế và tiếp cận
thị trường và đề xuất những giải pháp điều chỉnh chính sách và pháp luật để đảm
bảo thực thi hiệu quả Hiệp định sau khi có hiệu lực. Quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam khi tham gia TPP không chỉ đem lại cơ hội cho thương mại, đầu tư,
thúc đẩy sản xuất trong nước, xuất khẩu hàng hóa mà còn có tác động không nhỏ
đến việc thể chế, thúc đẩy cải cách thể chế cho phù hợp với nhu cầu phát triển nội
tại của đất nước cũng như quá trình hội nhập, tiếp cận thị trường, tiếp cận gần hơn
với trình độ phát triển của các nước trong tham gia TPP mà còn các nước trong
khu vực. Do đó, việc nghiên cứu tác động của việc gia nhập TPP đối với việc
hoàn thiện thể chế và tiếp cận thị trường không chỉ nhằm thực hiện tốt các cam
kết của TPP mà còn xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của Việt Nam trong công
cuộc cải cách và hoàn thiện thể chế, tiếp cận thị trường thế giới, đáp ứng nhu cầu
phát triển chung của đất nước.
1. Tác động hai chiều của việc gia nhập TPP đối với việc thể chế,
tiếp cận thị trường
Thuận lợi:
TPP là một hiệp định toàn diện, không chỉ là thương mại mà cả những vấn
đề chính trị “không liên quan đến thương mại” và có mức độ tự do hóa cao. TPP
không chỉ xác lập các mối quan hệ chiến lược về kinh tế trong khu vực châu Á
Thái Bình Dương và còn là khuôn mẫu và chuẩn mực cho các hiệp định thương
mại tự do khác.
Việc Việt Nam tham gia TPP là một quyết định chiến lược, có ý nghĩa cả về
chính trị - kinh tế:
441
- + Về khía cạnh chính trị, hiệp định TPP, VN-EU FTA và RCEP giúp chúng
ta tạo lập sự cân bằng giữa các nước lớn (Mỹ, EU, Trung Quốc).
+ Về mặt thể chế, tham gia TPP, một hiệp định chất lượng cao sẽ tạo ra sức
ép, “buộc” Việt Nam phải đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế nền kinh tế, thúc đẩy
nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Về mặt
kinh tế, các nghiên cứu đều khẳng định tác động ròng mà hiệp định TPP sẽ đem
lại cho Việt Nam thể hiện ở tăng trưởng GDP, thu hút FDI và gia tăng luồng
thương mại (cả xuất khẩu và nhập khẩu). 1
Trong đó, có vấn đề Việt Nam phải giải quyết các vấn đề về doanh nghiệp
nhà nước, cạnh tranh, mua sắm công theo chuẩn mực mà các đối tác TPP đưa ra.
Theo quy định thì các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị độc quyền các nước
TPP đều có doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò cung cấp dịch vụ công và các
hoạt động khác nhưng các nước cũng nhận ra lợi ích của việc thống nhất một
khung pháp lý về các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước lớn tham
gia vào các hoạt động thương mại. Các bên cùng đảm bảo rằng các doanh nghiệp
nhà nước của mình sẽ thực hiện việc mua bán trên cơ sở các xem xét thương mại
trừ khi việc làm đó không nhất quán với bất kỳ một nhiệm vụ nào mà một doanh
nghiệp nhà nước đang hoạt động theo đó. Các nước TPP còn thỏa thuận sẽ đảm
bảo các doanh nghiệp nhà nước hoặc những đơn vị độc quyền của mình không
phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ của các nước còn
lại. Các nước TPP đồng ý trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động
thương mại của các DNNN nước ngoài trên lãnh thổ của mình, và bảo đảm rằng
các cơ quan hành chính quản lý của các DNNN và doanh nghiệp tư nhân cũng
làm như vậy một cách công bằng. Các Nước TPP đồng ý sẽ không tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các nước TPP khác khi cung cấp hỗ trợ phi
thương mại cho các DNNN, hay làm tổn hại đến ngành công nghiệp trong nước
của thành viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho
DNNN sản xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ nước đó. Nước TPP đồng ý chia sẻ
danh sách các DNNN của mình với các nước TPP khác và khi được yêu cầu sẽ
cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ
và những hỗ trợ phi thương mại cung cấp cho các DNNN. Như vậy, khi tham gia
TPP, Việt Nam phải xoá bỏ sự phân biệt đối xử, áp dụng luật chơi bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, cả trên thị trường lẫn trong lĩnh vực mua sắm công trừ
1
Xem thêm: GS.TS. Hoàng Văn Châu (2014), đề tài cấp Bộ Đại học Ngoại thương Hà Nội, Báo cáo
tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và vấn đề tham gia của
Việt Nam".
442
- lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Mọi doanh nghiệp được bình đẳng trong việc tiếp
cận các nguồn lực, tài nguyên, vốn, thị trường. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn
tại, nhưng kinh doanh phải công khai, minh bạch, phải bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác. Từ khi ra nhập WTO đến nay, Việt Nam vẫn chưa kiến tạo
được môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chấp nhận vào TPP, Việt Nam phải sửa
đổi nhiều văn bản pháp luật hiện hành và quan trọng hơn, phải đổi mới cả phương
thức quản lý, điều hành nền kinh tế.
Tiếp theo Việt Nam có cơ hội hoàn thiện thể chế pháp luật quản lý lao động
và quản trị nhà nước. Bộ Công thương cho biết, các tiêu chuẩn cao về quản trị
minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ đặt ra thách thức lớn
cho bộ máy quản lý. Tuy nhiên, đây cũng là những tiêu chuẩn mà chúng ta đang
hướng tới để xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN, thực sự của dân, do
dân và vì dân, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, kỷ luật, kỷ
cương. Chính phủ sẽ chủ động xây dựng chương trình để thực hiện các tiêu chuẩn
cao này của TPP.2 Để thực thi cam kết trong TPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một
số quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động,
môi trường … Tuy nhiên, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự
chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao độ, ta có thể thực hiện thành công khối lượng
công việc này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình.
Tiếp theo tác động tác động đến thế chế quản lý kinh tế đối với lao động
trong doanh nghiệp. Việt Nam phải cải cách luật lao động để đạt được chuẩn mực
do các thành viên TPP đưa ra. Đó là các quyền thương lượng giữa công đoàn và
giới chủ, quyền thành lập nghiệp đoàn. Đây là những vấn đề rất nhạy cảm và rất
khó tìm được tiếng nói chung do thể chế chính trị của Việt Nam còn có sự khác
biệt với các nước thành viên TPP.
Đối với Việt Nam, một số nội dung đàm phán về lao động trong TPP được
cho là khá khó khăn để chấp nhận3:
Thứ nhất, các nguyên tắc về điều kiện lao động: Là một nền kinh tế đang
phát triển ở mức độ thấp, việc đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải duy trì
các điều kiện lao động ở cùng tiêu chuẩn tối thiểu với các nước phát triển trong
2
Xem thêm: http://doanhnghiepvn.vn/nhung-thach-thuc-viet-nam-phai-doi-mat-khi-tham-gia-tpp-
d56112.html
3
Trung tâm WTO- VCCI, http://www.trungtamwto.vn/tpp/cap-nhat-tinh-hinh-dam-phan-tpp-ve-lao-
dong-den-thang-52015
443
- TPP là điều không dễ dàng và có thể là tác nhân làm tăng chi phí sản xuất, từ đó
giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp;
Thứ hai, về quyền tự do nghiệp đoàn: Quyền tự do nghiệp đoàn (freedom of
association) thực chất là quyền tự do công đoàn. Trong bối cảnh Việt Nam đang
duy trì một hệ thống công đoàn thống nhất và duy nhất (Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam), yêu cầu về quyền tự do nghiệp đoàn nếu được hiểu theo nghĩa rộng
(đa công đoàn) sẽ làm thay đổi hệ thống hiện tại của Việt Nam;
Thứ ba, về thực thi: Theo cách tiếp cận chung trong TPP, việc chấp nhận
các cam kết về lao động không chỉ đơn thuần bao gồm việc điều chỉnh pháp luật
nội địa cho phù hợp mà còn phải đảm bảo việc thực thi nghiêm túc trong thực tế
với các biện pháp trừng phạt khi không đảm bảo thực thi. Trong khi đó, ở Việt
Nam luôn có một khoảng cách nhất định giữa pháp luật và thực tiễn, đặc biệt
trong vấn đề lao động.
Khi thực hiện cam kết trên Việt Nam có thuận lợi thể chế trong lĩnh vực này
như: Về thuận lợi là Việt Nam là thành viên ILO và đã tham gia nhiều Công ước
quan trọng của tổ chức này, trong đó có những Công ước hàm chứa các nguyên
tắc trong Chương lao động đang đàm phán trong TPP (bao gồm Công ước số 100
về công bằng trong tiền công/tiền lương; Công ước số 111 về Phân biệt đối xử về
lao động và việc làm; Công ước 182 về các Hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ
em; Công ước 138 về tuổi lao động tối thiểu; Công ước 29 về Lao động cưỡng
bức; Công ước 144 về Cơ chế tham vấn ba bên). Do đó, một phần trong số những
cam kết về lao động trong TPP cũng đồng thời là nghĩa vụ của Việt Nam trong
ILO. Vấn đề lao động (đặc biệt là các tiêu chuẩn trong sản xuất, sử dụng lao động
trẻ em/cưỡng bức, điều kiện lao động), trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam
đang sản xuất hàng xuất khẩu cho khách hàng nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh
vực gia công (dệt may, giầy dép…), từ lâu đã phải đáp ứng các điều kiện lao động
này. Nói cách khác, nếu đây là những điều kiện mới trong TPP thì doanh nghiệp
Việt Nam được suy đoán là vẫn có thể tuân thủ được.4
Tiếp theo Việt Nam có cơ hội mở cửa nhanh và mạnh thị trường nội địa của
mình cho hàng hoá, dịch vụ từ các nước đối tác và có cơ hội tiếp cận thị trường.
4
Trung tâm WTO-VCCI, http://www.trungtamwto.vn/tpp/cap-nhat-tinh-hinh-dam-phan-tpp-ve-lao-
dong-den-thang-52015
444
- Bởi lẽ, thương mại dịch vụ xuyên biên giới giữa các nước TPP, 12 quốc gia
thành viên sẽ cùng nhau cam kết thực hiện thương mại tự do. Hiệp định TPP bao
gồm những nghĩa vụ cốt lõi đã được thỏa thuận trong Hiệp định WTO và các hiệp
định thương mại khác như nghĩa vụ đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc; gia
nhập thị trường. Các nước thành viên của TPP sẽ thống nhất thực hiện các biện
pháp áp dụng chung trên cơ sở đảm bảo tính hợp lý, khách quan và không thiên
vị; chấp nhận các điều kiện về tính minh bạch trong triển khai các quy định liên
quan đến mở cửa và tiếp cận thị trường, khuyến khích hoạt động hợp tác về công
nhận qua việc cấp giấy phép và các vấn đề chính sách khác cũng như tiếp cận thị
trường cho nhà đầu tư.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam vẫn chưa kiến tạo được môi
trường cạnh tranh lành mạnh. Chấp nhận vào TPP, Việt Nam phải sửa đổi nhiều
văn bản pháp luật hiện hành và quan trọng hơn, phải đổi mới cả phương thức
quản lý, điều hành nền kinh tế.
Sau cùng, Việt Nam phải tiếp tục xử lý nguồn gốc xuất xứ hàng hoá xuất
khẩu giữa các thành viên TPP. Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được đề
xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ
nội khối mới được hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất
khẩu quan trọng nhất của Việt Nam. Nếu so sánh quan hệ thương mại giữa Việt
Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ, cán cân thương mại hai chiều của Việt Nam và
Hoa Kỳ so với Trung Quốc tuy kém hơn, nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Mỹ có thặng dư lớn. Hoa Kỳ mang lại cho xuất siêu của Việt Nam lên tới hơn
10% GDP- tương đương khoảng 14,8 tỷ USD/ tổng GDP là 138,1 tỷ USD năm
2012. Trong khi đó, Việt Nam nhập siêu với Trung Quốc chiếm hơn 11,5% GDP,
tương đương 16 tỷ USD/138,1 tỷ USD.5 Hai lĩnh vực xuất khẩu chủ lực từ Việt
Nam sang Hoa Kỳ là hàng may mặc, giày da và nông hải sản. Về thuận lợi, hàng
nông hải sản của Việt Nam tự sản xuất tương đối tốt. Trở ngại cần phải vượt qua là
việc sử dụng phân bón, thức ăn và thuốc bảo vệ thực vật cho đúng cách để vượt
qua hàng rào kiểm soát của FDA (Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa
Kỳ). Quy định đó đặt ra cho các nhà khoa học, nhà nước và người nông dân phải có
trách nhiệm tổ chức, phối hợp với nhau để có quy trình sản xuất hợp chuẩn.6
Khó khăn:
Thứ nhất, sức ép về cải cách thể chế, pháp luật, sự kiểm soát của nhà
nước. Mặc dù hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam đã được rà soát, xây
5
Nguồn: Tổng cục Hải quan
6
Nguồn: Như trên
445
- dựng mới và từng bước được hoàn thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa đầy đủ,
đồng bộ, nhất quán và ổn định… Đây chính là một trong những nguyên nhân
gây bất lợi cho Việt Nam khi va chạm và giải quyết các vụ tranh chấp và kiện
quốc tế:
+ Điều chỉnh thể chế luật pháp, các luật và các quy định theo hướng tôn
trọng các nguyên tắc minh bạch và đối xử quốc gia. Việt Nam có hệ thống pháp
luật đã sửa đổi và ban hành mới những luật và quy định liên quan đến thương
mại trong nước và nước ngoài, đầu tư nước ngoài, hợp tác kinh tế đối ngoại,
bảo vệ quyền tác giả và các loại hình dịch vụ. Các quy định hiện tại chưa hướng
đến việc tự do hóa hơn lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, thương mại, du
lịch, truyền thông, vận tải, kế toán và pháp lý. Một số bộ và cơ quan ngang bộ
liên quan đến các lĩnh vực này chưa được được cải tổ và sắp xếp lại. Việt
Nam chưa có nhiều quy định hạn chế đối với hàng hóa nước ngoài, như bỏ
những quy định cấm và hạn chế nhập khẩu ô tô nước ngoài,....thuế xuất khẩu
và các mức hoàn thuế VAT được sử dụng đan xen nhau. Vẫn còn duy trì
thương mại nhà nước trong xuất nhập khẩu một số mặt hàng nông sản, than,
dầu thô và tinh chế.
+ Hệ thống thể chế chính sách về lao động trong các doanh nghiệp còn
thiếu tính pháp điển, thiếu những định nghĩa cơ bản, chính xác, chưa theo kịp sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ Luật lao động ban hành trong thời kỳ
nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chưa dài. Bộ Luật Lao động hiện hành vẫm mang tính chất
“khung”, có những vấn đề đề cập cơ bản là mang nặng tính “nghị quyết” và tính
“chính sách” mà chưa bảo đảm tính quy phạm, thiếu sự bảo đảm trên tính thực
tiễn. Điển hình là các quy định về việc làm, tiền lương, hợp đồng lao động, công
đoàn, lao động đặc thù, thanh tra lao động… Nếu xét về khía cạnh xã hội thì đó là
các quy định rất hay, có ý nghĩa nhân văn nhưng rất khó áp dụng hiệu quả trong
thực tiễn vì thiếu các điều kiện cần và đủ cần thiết. Cho nên, các quy định đó cơ
bản là đưa ra những vấn đề mang tính mục tiêu lý tưởng chứ không phải là các
quy phạm để trực tiếp “điều chỉnh” quan hệ xã hội về lao động. Bên cạnh đó, có
những vấn đề rất quan trọng chưa được điều chỉnh; lại có những vấn đề đặc thù
khác, pháp luật các nước khác đã quan tâm từ lâu, nhưng vẫn chưa được đưa vào
hệ thống pháp luật lao động nước ta, như vấn đề “lạm dụng” , “đối xử thiếu công
bằng/thiếu đúng đắn trong lao động”, “cơ chế ba bên”… Bên cạnh đó, nhiều vấn
đè còn bị coi nhẹ trong các quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động quản
lý nhà nước như tố tụng lao động, trọng tài lao động, thương lượng tập thể, vai trò
tổ chức đại diện, đối thoại xã hội, cơ chế ba bên…
446
- Bên cạnh đó, thể chế hiện hành chưa tiếp thu và thích ứng nhiều với những
quy tắc căn bản của quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường, với các tiêu
chuẩn lao động quốc tế. Có liên quan đến thách thức thứ nhất, đó chính là tư duy,
thể chế và thói quen của chúng ta trong vấn đề lao động từ trước đến nay khác
khá nhiều so với các nước khác. Có thể nói trong quá trình đổi mới, chúng ta đã
đổi mới mạnh mẽ tư duy kinh tế về nhiều mặt, nhưng trong vấn đề lao động, thì
có lẽ sự chuyển đổi về tư duy của chúng ta chưa mạnh bằng một số chính sách
kinh tế khác hay cởi mở như chính sách thương mại. Về thể chế, chúng ta có thể
chế khá tốt về lao động, Luật Lao động của chúng ta có thể nói là khá cấp tiến,
ILO cũng thừa nhận rằng luật pháp về lao động của Việt Nam khá tiên tiến so với
các nước đang phát triển khác. Việt Nam đã mạnh dạn chấp nhận tham gia một
loạt các công ước của ILO khá sớm, trong khi các nước khác còn ngần ngại. Tuy
nhiên, vấn đề là dù đã có quy định trong luật pháp, cơ chế thực hiện của chúng ta
rất yếu, mà không thể nói một thể chế là tốt nếu như nó không đi được vào thực tế
cuộc sống. Cái yếu lớn nhất ở thể chế về lao động của chúng ta là khâu thực hiện.
+ Khả năng điều chỉnh, thích ứng của bộ máy quản lý nhà nước và chất
lượng của nguồn nhân lực: Qua tiếp xúc và trao đổi với một số cơ quan Chính
phủ, khả năng đổi mới hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước cũng như vấn đề chất
lượng công chức nói riêng và chất lượng nguồn nhân lực nói chung còn hạn chế.
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm
trọng, trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực từ công an đến hải quan, từ tài
nguyên môi trường đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục cho đến cả
thanh tra, kiểm sát, tòa án,… Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản về phòng, chống tham nhũng, nhưng cho đến nay vẫn chưa đẩy lùi được tham
nhũng.7
+ Bất lợi từ việc mở cửa thị trường và tiếp cận thị trường như hàng nông
sản, mua sắm công, thủ tục ràng buộc về ban hành và thực thi các quy định về
TBT, phòng vệ thương mại. Bên cạnh đó, các nhóm lợi ích dễ bị tổn thương là
nông dân và người lao động.
Việt Nam vẫn còn là một thị trường tương đối đóng với nhiều nhóm mặt
hàng nhập khẩu còn giữ mức thuế khá cao. Việc cam kết giảm thuế đối với phần
lớn các nhóm mặt hàng từ các đối tác TPP sẽ làm cho các luồng hàng hoá nhập
khẩu từ các nước này tràn vào thị trường Việt Nam. Mặt bằng thuế nhập khẩu
7
Xem thêm: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/Phong-chong-
tham-nhung/2013/19910/Thuc-chat-nguyen-nhan-cua-tham-nhung-va-nhung-van-de-dat.aspx
447
- bình quân của Việt Nam sẽ lùi về mức 0%, tạo sức ép rất lớn lên các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Hệ quả làm cho thị phần của các nhà sản xuất
trong nước bị thu hẹp, cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn. Đặc biệt, nguy cơ này rất cao
đối với nhóm hàng nông sản, vốn gắn liền với nhóm đối tượng rất dễ bị tổn
thương trong hội nhập là nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
2. Những giải pháp đối với việc hoàn thiện thể chế và tiếp cận thị
trường khi Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương TPP
Thứ nhất, khẩn trương thúc đẩy cải tổ cơ cấu nền kinh tế, cải thiện năng lực
ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam khi tiếp cận thị trường
Hiện nay, một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam như điện
tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô tô, xe máy… hầu như chưa có công nghiệp hỗ trợ
đi kèm, nên phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất
nhiều khi còn manh mún, bị động, chi phí sản xuất cao.
Trong thời gian qua, nhà nước cũng đã có định hướng ưu đãi cho các doanh
nghiệp hỗ trợ tuy nhiên những ưu đãi này chưa rõ ràng và đang dưới hình thức
cào bằng. Đối tượng được hưởng nhiều ưu đãi nhất lại không phải là doanh
nghiệp nội mà chiếm tới 70% là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong giai đoạn đầu của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài với bối cảnh
Việt nam chưa gia nhập WTO, AFTA chính sách bảo hộ mậu dịch còn lớn, khi đó
các doanh nghiệp nước ngoài với mục tiêu nhắm tới là mở rộng thị trường tại
Việt nam nên chỉ đầu tư vào lắp ráp sản phẩm tiêu thụ ở thị trường trong nước với
số vốn không lớn chỉ cần từ vài đến vài chục triệu USD và thời gian cũng không
dài, từ 10 đến 15 năm với hình thức liên doanh để hưởng các ưu đãi về bảo vệ sản
xuất của Việt Nam. Hệ quả là hầu như không có doanh nghiệp có vốn nước ngoài
nào đầu tư thực sự cho công nghệ cao hoặc chuyển giao công nghệ nên chúng ta
chỉ thu được một số kinh nghiệm về tổ chức sản xuất và quản lý chất lượng.
Tuy nhiên với tình hình hiện nay, sau khi Việt nam đã gia nhập WTO,
AFTA.. những doanh nghiệp FDI còn trụ lại hoặc đầu tư mới, họ thực sự mong
muốn tìm cơ hội đầu tư lâu dài và hợp tác với Việt nam, nhưng lại gặp phải
những trở lực rất lớn đó là ngành công nghiệp phụ trợ của Việt nam quá yếu và
mong manh dẫn đến mặc dù các doanh nghiệp FDI này đầu tư vào Việt nam
nhưng vẫn phải nhập khẩu vật tư linh kiện từ nước ngoài đồng thời phải kéo theo
những nhà lắp ráp, sản xuất bán thành phẩm cho họ từ chính quốc sang. Điều này
dẫn đến giá trị gia tăng do các công ty Việt nam tạo ra không đáng là bao.
448
- Ngay cả đối với ngành hàng thế mạnh như may mặc, Việt Nam chủ yếu
nhập khẩu nguyên liệu dệt may nên khó đáp ứng yêu cầu quy tắc xuất xứ (ví dụ,
quy tắc “yarn-forward” - “từ sợi trở đi” của TPP, theo đó nguyên liệu dệt phải có
nguồn gốc trong khu vực TPP).
Do vậy, cần tạo dựng khung khổ pháp lý hoàn chỉnh thuận lợi để phục vụ
ngành cũng như doanh nghiệp tham gia vào công nghiệp hỗ trợ. Cần có các văn
bản quy định về phẩm cấp kỹ thuật, đăng ký ngành nghề, thay đổi về hải quan,
về chính sách thuế... Cần xây dựng Luật phát triển công nghiệp cơ khí, công
nghiệp điện tử… để đưa ra các biện pháp tổng hợp, có hệ thống và quy trình cụ
thể như phát triển kỹ thuật, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính, bảo đảm vị trí,
khai thác thị trường…
Chính phủ cần có các ưu đãi về tài chính, về đất đai hạ tầng, về đầu tư, về
nguồn nhân lực, rồi chính sách khuyến khích thành lập các DN sản xuất công
ngiệp hỗ trợ, xây dựng các quỹ đặc thù riêng cho công nghiệp hỗ trợ, hình thành
tổ chức đầu mối để thực hiện sự quản lý Nhà nước dẫn dắt liên kết các DN làm
công nghiệp hỗ trợ, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung ứng, xây dựng ban
hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về công nghiệp hỗ trợ...
Thứ hai, Chính phủ cần có những giải pháp mạnh mẽ cải cách thể chế
không đi trên những đường ray cũ khi tham gia TPP
Liên quan đến cải cách thể chế, trong số những vẫn đề còn gây nhiều chia rẽ
trong đàm phán TPP, có thể nhận diện ra một số những khác biệt về quan điểm
đứng từ lập trường của một quốc gia có nền kinh tế yếu trong số 12 quốc gia TPP
như sau:
+ Cần cải cách thể chế quản lý kinh tế mạnh mẽ đối với doanh nghiệp nhà
nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn khi thực hiện các nguyên tắc của TPP
Hiện nay, các SOEs của Việt Nam hoạt động theo cách thức quản lý chung
Luật Doanh nghiệp chung, hay nói cách khác, theo luật chơi chung của các chủ
thể tham gia thị trường. Vấn đề ở chỗ cần thống thất chính sách và cơ chế quản lý
hiệu quả SOEs hoạt động cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
+ Chính phủ cần giải quyết hài hòa vấn đề lao động trong chính sách
kinh tế hậu TPP
Chính phủ cần coi trong việc quy định những vấn đề mới liên quan đến
quyền tự do lập hội (công đoàn), quyền can thiệp vào các trường hợp sử dụng lao
động trẻ em, vào việc giải quyết các tranh chấp lao động…
449
- 3. Kết luận chung
Tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới,
tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các
cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP
đem lại.Việt Nam phải tự điều chỉnh, thay đổi cách thức quản lý, pháp lý để thích
ứng với các điều kiện đặt ra, hay nói cách khác là cải cách trong nước về mua
sắm công, doanh nghiệp nhà nước, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh.
Tham gia TPP là điều kiện tốt nhất để Việt Nam tiếp cận với các hiệp định
thương mại khác, đàm phán với các đối tác khác bởi những điều khoản TPP đưa
ra mang tính chuẩn mực cao. Nhà nước phải thay đổi hành lang pháp lý cho thích
ứng, thay đổi cách ứng xử cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alan W.Wolff - Hội đồng ngoại thương Hoa kỳ/Quy định về các quy tắc
thương mại quốc tế trong các FTAs/Tài liệu hội thảo FTA - Ủy ban Đối
ngoại Quốc hội 8/2012
2. Tổng hợp thông tin từ vòng đàm phán thứ 19 TPP.
3. http://baochinhphu.vn/The-gioi-va-Viet-Nam/Tuyen-bo-chung-Viet-
NamHoa-Ky/177490.vgp
4. Khuyến nghị của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về phương án đàm
phán Chương Đầu tư trong TPP.
5. Khuyến nghị phương án đàm phán: Chương Lao động và Giải quyết tranh
chấp lao động - Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương.
6. Theo nhận định của Tổng Giám đốc DABACO - Tập đoàn, Công ty Cổ
phần chuyên sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc trong chuyên mục tin
tức thời sự VTV1 ngày 5/2/2014
7. http://www.duthaoonline.quochoi.vn/ “Thách thức đối với thị trường lao
động và việc làm”
450
nguon tai.lieu . vn