Xem mẫu
- CHƯƠNG 4
PHÂN PHỐI LẠI THU NHẬP VÀ
ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Chương trước đã tìm hiểu về các dạng thất bại của thị trường và sự
can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế nhằm khắc phục các thất bại thị
trường, đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Chương này sẽ nghiên
cứu các can thiệp của chính phủ trong phân phối lại thu nhập để đảm
bảo công bằng xã hội. Những nội dung chính là: (1) Quan niệm về công
bằng và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập; (2) Quan điểm về công
bằng và hiệu quả trong nền kinh tế; (3) Các lý thuyết về phân phối lại thu
nhập; (4) Hệ thống an sinh xã hội nhằm phân phối lại thu nhập và hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
4.1. Công bằng và bất bình đẳng
4.1.1. Quan niệm về công bằng và bất bình đẳng
Công bằng xã hội là một mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng
hướng tới trong quá trình phát triển bền vững. Do đó, các chính sách
được đưa ra bên cạnh vấn đề hiệu quả kinh tế cần được chú trọng tới khía
cạnh công bằng xã hội. Nhưng quan niệm về công bằng còn là vấn đề gây
nhiều tranh cãi, bởi công bằng là khái niệm chuẩn tắc. Có nhiều góc nhìn
về vấn đề công bằng, công bằng là một phạm trù đạo đức, công bằng là
một vấn đề xã hội và công bằng là một vấn đề kinh tế. Phạm vi của kinh
tế công sẽ đề cập tới công bằng là một vấn đề kinh tế
Công bằng xã hội về phương diện kinh tế không có nghĩa là thành
quả phát triển của xã hội được chia đồng đều cho mọi người. Có 2 quan
niệm khác nhau về công bằng xã hội:
Thứ nhất, công bằng theo chiều ngang: là sự đối xử như nhau đối với
những người có tình trạng kinh tế như nhau. Theo quan điểm này, nếu
hai cá nhân có tình trạng kinh tế như nhau (về thu nhập, tôn giáo..) thì
chính phủ không được phân biệt đối xử.
101
- Thứ hai, công bằng theo chiều dọc: là đối xử khác nhau với những
người có khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau
nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có. Theo cách hiểu này, chính phủ
có thể đối xử khác nhau với những người có tình trạng kinh tế khác nhau
nhằm giảm bớt những khác biệt, ví dụ ưu tiên cho những người già,
những người có hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc ...
Nếu như công bằng theo chiều ngang có thể được thực hiện bởi cơ
chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc đòi hỏi sự điều tiết của nhà
nước. Chính phủ phải thực thi chính sách phân phối theo công bằng dọc
nhằm giảm chênh lệch về phúc lợi giữa các cá nhân. Điều này được thể
hiện rõ qua chính sách thuế và trợ cấp.
Mặc dù trên lý thuyết, việc phân biệt giữa công bằng theo chiều
ngang và công bằng theo chiều dọc là dễ dàng nhưng trên thực tế việc áp
dụng những tiêu chuẩn này là không rõ ràng.
Trong báo cáo phát triển thế giới năm 2006, NHTG đã xem xét khái
niệm công bằng là sự “công bằng về cơ hội” nghĩa là con người cần được
bình đẳng với nhau trên mọi phương diện, tránh để những hoàn cảnh cá
nhân đã định trước như giới tính, màu da, quê quán, nguồn gốc gia đình,
nhóm xã hội nơi cá nhân đó sinh ra... góp phần quyết định đến sự phát
triển của con người.
Công bằng xã hội trong một quốc gia hay vùng miền nào đó thường
được xem xét dưới khía cạnh phân phối thu nhập. Phân phối thu nhập
công bằng có nghĩa mỗi cá nhân được đánh giá đúng mức với công sức
mà họ đã bỏ ra, nhằm nâng cao mức sống của họ, loại bỏ tình trạng
không làm mà vẫn được hưởng lợi, lao động vất vả mà cuộc sống vẫn
khó khăn, thiếu thốn. Phân phối thu nhập công bằng đối lập với chủ
nghĩa bình quân trong phân phối: mọi người có thu nhập tương tự như
nhau bất kể năng lực và nỗ lực của họ rất khác nhau. Chủ nghĩa bình
quân trong phân phối sẽ triệt tiêu động lực học tập, làm việc và sáng tạo
của các cá nhân, mà hệ quả tất yếu là một nền kinh tế trì trệ.
Quan niệm về bất bình đẳng:
Bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội, nó là cơ sở tạo nên
sự phân tầng xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một
cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội
102
- kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác. Bất bình đẳng xã hội là sự
không bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với
những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
Bất bình đẳng xã hội do nhiều nguyên nhân gây ra, trong những xã
hội khác nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt. Bất bình đẳng
thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân và kết quả cụ thể liên quan
đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ... Nguyên
nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội đa dạng và khác nhau giữa các xã hội
và nền văn hóa, và các nhà xã hội học đưa về ba loại căn bản:
Thứ nhất, cơ hội trong cuộc sống. Cơ hội trong cuộc sống bao gồm
tất cả những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như
của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khỏe hay đảm
bảo an ninh xã hội. Trong một xã hội, một nhóm người có thể có cơ hội,
trong khi các nhóm khác thì không, đó là nguyên nhân khách quan của
bất bình đẳng xã hội.
Thứ hai, địa vị xã hội. Sự khác nhau về địa vị xã hội, tức là sự khác
nhau về uy tín hay vị trí do quan niệm và sự đánh giá của các thành viên
khác trong xã hội. Địa vị xã hội là sự phản ánh vị thế xã hội của cá nhân,
do cá nhân đạt được ở trong một nhóm hoặc là một thứ bậc trong nhóm
này khi so sánh với thành viên trong nhóm khác, được xác định bởi một
loạt đặc điểm kinh tế, nghề nghiệp, sắc tộc. Trên thực tế, cơ cấu giai cấp
là nền tảng căn bản nhất của địa vị xã hội. Ngoài ra, các thành tố khác tạo
lập nên địa vị xã hội phải kể đến trình độ chuyên môn, mức lương, gia
đình, lứa tuổi, lãnh thổ, cư trú.
Thứ ba, ảnh hưởng chính trị. Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là
khả năng của một nhóm xã hội thống trị những nhóm khác hay có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định cũng như việc thu được nguồn lợi
từ các quyết định. Trên thực tế, bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị có
thể được nhìn nhận như là có được từ ưu thế vật chất hay địa vị cao. Bản
thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ
hội trong cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân giữ chức vụ chính trị cao.
Như vậy, gốc rễ của bất bình đẳng có thể nằm trong mối quan hệ
kinh tế, địa vị xã hội, hay trong các mối quan hệ thống trị về chính trị của
các giai cấp trong xã hội. Trong phạm vi học phần Kinh tế công cộng,
103
- chúng ta chỉ xem xét bất bình đẳng về kinh tế hay bất bình đẳng về phân
phối thu nhập mà thôi.
4.1.2. Thước đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Để đánh giá sự công bằng hay không trong phân phối thu nhập ở một
quốc gia, người ta thường sử dụng các thước đo phản ánh mức độ bất
bình đẳng. Có nhiều thước đo phản ánh mức độ bất bình đẳng, hai thước
đo được sử dụng phổ biến là đường cong Lorenz và hệ số Gini.
4.1.2.1. Đường cong Lorenz
Một trong những công cụ biểu đạt mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập được sử dụng trong kinh tế học là đường cong Lorenz. Tuy
không thể phản ánh được hết tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập của nền kinh tế nhưng đường cong Lorenz đã cố gắng lượng hoá để
có thể so sánh sự công bằng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia.
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông, cạnh bên là
số phần trăm thu nhập cộng dồn, còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm cộng
dồn các nhóm dân cư sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường
cong Lorenz được xây dựng theo trình tự như sau: (1) sắp xếp thu nhập
của dân cư theo thứ tự tăng dần; (2) chia dân số thành các nhóm có số
dân bằng nhau (thường chia làm 5 nhóm); (3) đưa số liệu lên đồ thị: %
dân số cộng dồn vào cạnh đáy và % thu nhập cộng dồn tương ứng vào
cạnh bên; (4) nối các điểm kết hợp giữa % dân số cộng dồn và % thu
nhập cộng dồn, ta được đường cong Lorenz.
Hình 4.1: Đường cong Lorenz
104
- Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập cộng
dồn theo tỷ lệ phần trăm dân số cộng dồn, do vậy còn được gọi là đường
phân phối thu nhập. Đường chéo của hình vuông (hay đường 450) cho
biết bao nhiêu % dân số nắm giữ bấy nhiêu % thu nhập tương ứng (hay
thu nhập của tất cả các cá nhân bằng nhau) nên được gọi là đường bình
đẳng tuyệt đối. Ngược lại, khi thu nhập nằm trọn trong tay một cá nhân -
trường hợp cạnh đáy và cạnh bên phải của hình vuông thì ta có đường bất
bình đẳng tuyệt đối. Trong thực tế, hai trường hợp trên không bao giờ
xảy ra nhưng bất bình đẳng luôn tồn tại và nó được biểu thị thông qua
hình dáng đường cong Lorenz.
Đường cong Lorenz bắt đầu từ điểm gốc 0 của đường 450 và kết thúc
ở đầu phía bên kia đường 450, nó nằm ở khoảng giữa đường 450 và
đường bất bình đẳng tuyệt đối. Đường cong Lorenz càng gần đường 450
thì mức độ bất bình đẳng càng thấp (hay mức độ công bằng càng cao) và
ngược lại, đường cong Lorenz càng xa đường 450 thì mức độ bất bình
đẳng càng cao (hay mức độ công bằng càng thấp).
Như vậy, đường cong Lorenz là một công cụ tiện lợi, giúp chúng ta
đánh giá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thông qua
việc quan sát hình dạng đường cong. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép so
sánh mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia
hay giữa các thời kỳ phát triển.
Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là: (1) chỉ cho phép thấy
được sự bất bình đẳng một cách định tính thông qua nhận định chủ quan
của người đánh giá; (2) không thể đưa ra kết luận chính xác về mức độ
bất bình đẳng khi các đường Lorenz giao nhau và rất phức tạp khi so
sánh nhiều quốc gia cùng một lúc. Vì vậy, cần có một thước đo khác
hoàn thiện hơn để khắc phục hạn chế này của đường cong Lorenz.
4.1.2.2. Hệ số Gini
Hệ số Gini là thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập được sử dụng phổ biến nhất. Hệ số Gini được xác định dựa trên
đường cong Lorenz, thông qua công thức sau:
Hệ số Gini =
Trong đó, A là phần diện tích được giới hạn bởi đường cong Lorenz
105
- và đường 450; B là phần diện tích được giới hạn bởi đường cong Lorenz,
cạnh đáy và cạnh bên phải hình vuông.
Từ công thức trên, ta thấy rằng hệ số Gini có giới hạn trong đoạn
[0,1]. Hệ số Gini càng nhỏ, đường cong Lorenz càng gần đường 450 thì
mức độ bất bình đẳng càng thấp và ngược lại, hệ số Gini càng lớn, đường
cong Lorenz càng xa đường 450 thì mức độ bất bình đẳng càng cao.
Trường hợp hệ số Gini = 0 xảy ra khi đường Lorenz trùng với đường
bình đẳng tuyệt đối và hệ số Gini = 1 xảy ra khi đường Lorenz trùng với
đường bất bình đẳng tuyệt đối. Thực tế thì hai trường hợp trên không bao
giờ xảy ra, do đó hệ số Gini luôn nằm trong khoảng (0,1) và càng nhỏ
càng tốt.
Dựa vào số liệu thống kê nhiều năm của nhiều quốc gia, Ngân hàng
thế giới nhận thấy rằng, trong thực tế, giá trị của hệ số Gini thay đổi
trong phạm vi hẹp hơn, từ 0,2 đến 0,65. Đối với các nước có thu nhập
thấp, hệ số Gini từ 0,3 đến 0,5; đối với các nước có thu nhập trung bình,
hệ số Gini từ 0,4 đến 0,65; và đối với các nước có thu nhập cao, hệ số
Gini từ 0,2 đến 0,4. Theo đó, Ngân hàng thế giới cũng đưa ra nhận xét
rằng, hệ số Gini tốt nhất thường xoay quanh mức 0,3.
Bảng 4.1: Hệ số Gini của Việt Nam qua các năm
Năm 1993 2002 2006 2010 2014 2016
Hệ số Gini 0,33 0,37 0,358 0,393 0,348 0,44
Nguồn: Ngân hàng thế giới
Số liệu thống kê cho thấy mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên mặc dù Chính phủ đã có
những nỗ lực nhất định trong việc giảm bất bình đẳng xã hội thông qua
các chương trình phúc lợi hỗ trợ người nghèo thời gian vừa qua.
Có thể thấy rằng, hệ số Gini đã khắc phục được hạn chế của đường
Lorenz là nó lượng hoá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập bằng một con số cụ thể. Tuy vậy, việc sử dụng phương pháp này
cũng có những hạn chế: (1) hệ số Gini bằng nhau thể hiện ở diện tích
phần A như nhau nhưng độ phân bố các nhóm dân cư có mức thu nhập
khác nhau là không giống nhau, do đó hình dạng đường Lorenz là khác
nhau. Điều này đặc biệt đúng khi các đường Lorenz giao nhau, làm cho
hệ số Gini trở thành một thước đo không hoàn toàn nhất quán; (2) không
106
- cho phép phân tách hệ số Gini theo các phân nhóm (chẳng hạn nông
thôn, thành thị hay các vùng trong một nước) rồi sau đó tổng hợp lại để
rút ra hệ số Gini quốc gia. Mặc dù vậy, hệ số Gini hiện nay vẫn là thước
đo được sử dụng phổ biến để đo mức độ bất bình đẳng giữa các quốc gia
trên thế giới.
4.1.3. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là vấn đề mà tất cả các quốc
gia trên thế giới đều phải đối mặt. Để hạn chế tình trạng này, các nhà làm
chính sách cần phải làm rõ những nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự bất bình
đẳng. Theo kết quả tổng hợp từ nhiều nghiên cứu, có hai nhóm nguyên
nhân chủ yếu là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập xuất phát từ tài
sản và từ lao động.
4.1.3.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản
Tài sản hay nguồn lực mà các cá nhân trong xã hội nắm giữ là rất
khác nhau và nó tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài
sản. Trong đó, tài sản của mỗi cá nhân lại được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau.
Thứ nhất, tài sản được hình thành do được thừa kế. Của cải của mỗi
gia đình được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, nhiều người
trong xã hội may mắn sinh ra đã là người giàu có, bởi họ được thừa kế
một cơ nghiệp lớn của cha ông để lại. Trong khi đó, có rất nhiều người
nghèo và sống trong nợ nần túng quẫn từ đời này sang đời khác. Điều
này tạo ra sự bất bình đẳng sâu sắc trong xã hội. Vì vậy, để hạn chế sự
bất bình đẳng này, Chính phủ đã thực hiện chính sách đánh thuế cao vào
tài sản thừa kế và quà tặng.
Thứ hai, tài sản được hình thành do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm
khác nhau. Các cá nhân trong xã hội có thu nhập giống nhau nhưng cách
thức sử dụng thu nhập của họ khác nhau. Người có ý thức tiết kiệm và kế
hoạch chi tiêu hợp lý thì tài sản mà họ có sẽ khác với người luôn “vung
tay quá trán” và không lo nghĩ gì cho tương lai. Chính sự tiêu dùng và
tiết kiệm khác nhau của các cá nhân khác nhau đã ảnh hưởng lớn đến
lượng tài sản mà họ tích luỹ được.
Thứ ba, tài sản được hình thành do kết quả kinh doanh. Thực tế cho
thấy những người giàu có trong xã hội hiện nay đều là những người làm
107
- kinh doanh, họ dám đầu tư tiền bạc và chấp nhận rủi ro. Kết quả kinh
doanh thuận lợi khiến họ ngày càng có nhiều tài sản hơn những người
“an phận thủ thường”.
4.1.3.2. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
Lao động là yếu tố cơ bản để tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, thu nhập
của các cá nhân trong xã hội rất khác nhau bởi họ khác nhau về trình độ,
nghề nghiệp hay cường độ lao động. Điều này dẫn tới bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập từ lao động.
Thứ nhất, thu nhập khác nhau do khác nhau về khả năng và kỹ năng
lao động. Trong xã hội hiện nay, những người có trình độ chuyên môn
cao sẽ kiếm được công việc tốt và được hưởng một chế độ lương bổng
cao. Khi cuộc sống dư giả về tiền bạc thì họ sẽ có nhiều cơ hội để giao
lưu, hưởng thụ các dịch vụ mới, hiện đại của xã hội; con cái của họ
cũng có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Ngược lại, những người có
trình độ thấp, cơ hội kiếm được việc làm không cao, mức thù lao nhận
được cũng không cao, chỉ đủ tiêu pha cho cuộc sống hàng ngày và một
phần cho tiết kiệm, con cái của họ sẽ không được phát triển trong một
môi trường tốt nhất.
Thứ hai, thu nhập khác nhau do khác nhau về cường độ làm việc. Hai
cá nhân giống nhau về mọi yếu tố: trình độ chuyên môn, sức khỏe, cơ
hội, môi trường làm việc... nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau
thì thu nhập mà họ có khác nhau. Những người bỏ nhiều thời gian và
công sức để làm việc thì thu nhập của họ sẽ cao hơn những người khác.
Thứ ba, thu nhập khác nhau do khác nhau về nghề nghiệp và tính
chất công việc. Thực tế cho thấy, những công việc phổ thông, đòi hỏi ít
kỹ năng thường được trả lương thấp; còn công việc chuyên môn có hàm
lượng chất xám nhiều sẽ được hưởng lương cao hơn. Những công việc có
liên quan đến chất độc hại thì sẽ được trả lương cao hơn để bù đắp cho
những giảm sút về sức khỏe của người lao động.
Ngoài ra, có thể có nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sự bất
bình đẳng trong thu nhập từ lao động như: sự phân biệt đối xử trong xã
hội, ảnh hưởng của thiên tai, các rủi ro khác... dẫn đến sự khác biệt về
tiền lương của các cá nhân.
108
- Các yếu tố trên tạo nên sự chênh lệch thu nhập giữa các cá nhân
trong xã hội. Chênh lệch thu nhập do sự khác biệt trong năng suất là tất
yếu, là động lực cho tăng trưởng, là tiền đề của hiệu quả, đây không phải
là nguồn gốc của bất bình đẳng kinh tế. Tuy nhiên, một nền kinh tế có
chênh lệch thu nhập quá lớn sẽ kéo theo những chênh lệch khác về cơ
hội, về khả năng tiếp cận các nguồn lực sẵn có, chênh lệch về trình độ và
về mức sống... khi đó sẽ tạo nên bất bình đẳng về phân phối thu nhập.
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập dẫn đến nhiều hệ luỵ liên quan
đến tăng trưởng kinh tế cũng như an sinh xã hội.
4.1.4. Lý do Chính phủ can thiệp nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Công bằng và hiệu quả là hai mục tiêu cao nhất trong suốt quá trình
phát triển của xã hội loài người. Khi nguồn lực xã hội được sử dụng một
cách hiệu quả nhưng không có tác động gì tới sự công bằng trong phân
phối thu nhập giữa các cá nhân thì Chính phủ phải can thiệp thông qua
các công cụ và chính sách về phân phối lại để giảm bớt sự bất bình đẳng
thu nhập trong xã hội.
Phân phối lại thu nhập tuy không làm tăng mức của cải chung của xã
hội nhưng nó có khả năng làm tăng tổng phúc lợi xã hội. Bởi quá trình
phân phối lại thu nhập giúp cải thiện lợi ích cho người nghèo nhưng lại
khiến người giàu bị giảm lợi ích. Tuy nhiên, do thu nhập của người
nghèo thấp nên lợi ích tăng thêm đối với họ sẽ lớn hơn lợi ích giảm đi
của người giàu. Kết quả là tổng phúc lợi xã hội tăng lên.
Phân phối lại thu nhập có tác dụng động viên, giúp đỡ người nghèo
vượt qua những thời điểm khó khăn, nguy khốn, giúp họ vươn lên trong
cuộc sống. Nghèo đói thường đi liền với các tệ nạn xã hội, do đó khi
người nghèo được hỗ trợ tốt thì cũng góp phần giảm bớt tệ nạn xã hội và
giữ vững ổn định chính trị.
Phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội là cách đảm bảo
khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản mà con người được hưởng với tư cách
là quyền của công dân. Do vậy, giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập tạo
ra một ngoại ứng tích cực đối với quá trình phát triển của nền kinh tế.
4.2. Quan điểm về mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả
Công bằng và hiệu quả là hai mục tiêu cao nhất mà mọi Chính phủ
luôn hướng tới trong quá trình phát triển đất nước. Một câu hỏi đặt ra là
109
- chúng ta có phải đánh đổi giữa hai mục tiêu này hay không? Hay chúng
ta có thể đồng thời đạt được cả hai mục tiêu mà không phải hy sinh bất
kỳ một mục tiêu nào? Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
4.2.1. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả có mâu thuẫn
Theo quan điểm này, chúng ta phải hy sinh một trong hai mục tiêu.
Có nghĩa là, để đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế, phải chấp nhận sự bất
công và ngược lại, để cải thiện công bằng xã hội thì phải hy sinh hiệu
quả. Trong tác phẩm “Bình đẳng và hiệu quả: Một sự đánh đổi lớn” A.
Okun đã cho rằng theo đuổi bình đẳng có thể làm giảm hiệu quả (hay
giảm sản lượng đầu ra của nền kinh tế, với yếu tố nguồn lực đầu vào như
nhau). Bởi vì phân chia thu nhập bình đẳng trong xã hội không chỉ làm
giảm động lực lao động và đầu tư trong xã hội mà còn tạo ra một chi phí
đáng kể cho toàn xã hội bởi nỗ lực tái phân chia thu nhập, thông qua cơ
chế thuế hoặc lương tối thiểu. Ông liên hệ cơ chế này với hình ảnh “cái
xô thủng”, khi nguồn lực chuyển từ tay người này sang tay người khác,
nó sẽ bị thất thoát (bởi lỗ thủng đáy xô) và người nghèo sẽ không nhận
được tất cả các khoản tiền thu được từ người giàu. Vì vậy những “lỗ
thủng” trong các chương trình phân phối lại có nguồn gốc từ:
Thứ nhất, quá trình phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người
nghèo sẽ làm tăng chi phí hành chính để vận hành bộ máy thực hiện chức
năng phân phối lại. Đây là những khoản chi phí không hiệu quả nhưng
không thể tránh khỏi trong các chương trình chi tiêu hỗ trợ người nghèo
của Chính phủ. Bên cạnh đó, trong quá trình phân phối lại còn có sự thất
thoát nguồn lực do vấn đề tham ô, tham nhũng của một số cá nhân. Do
vậy, có được công bằng phải hy sinh hiệu quả, tổng thu nhập trong nền
kinh tế giảm đi.
Thứ hai, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại được
lấy từ ngân sách với thuế là nguồn thu chủ yếu. Khi thuế thu nhập ngày
càng tăng, người làm việc giảm động cơ làm việc nên họ làm việc ít đi và
giảm đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế. Đồng thời, nguồn lực
được sử dụng để phân phối lại cũng sẽ giảm.
Thứ ba, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại
được lấy từ ngân sách với nguồn hình thành từ tiết kiệm của thu nhập
quốc dân. Khi tăng thuế sẽ khiến lãi suất thực giảm, tiết kiệm giảm và
110
- đầu tư giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sự tăng trưởng, phát triển của
nền kinh tế.
Thứ tư, các chương trình phân phối lại có thể gây ra sự nản lòng đối
với những người phải đóng góp nhiều. Mặt khác, những người nhận
được hỗ trợ có thể không có động lực làm việc, vươn lên thoát nghèo
mà có tâm lý ỷ lại vào sự giúp đỡ của Chính phủ và các cá nhân khác
trong xã hội.
4.2.2. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả không mâu thuẫn
Đối ngược với quan điểm ở trên, theo quan điểm này, Chính phủ một
quốc gia có thể đồng thời đạt được cả hai mục tiêu bởi quá trình phân
phối lại thu nhập giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội sẽ tạo động lực để
thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao hiệu quả kinh tế. M. Todaro cho rằng giải
quyết vấn đề phân phối thu nhập công bằng sẽ thúc đẩy hiệu quả của nền
kinh tế. Quan điểm này được đưa ra dựa trên những lập luận sau:
Thứ nhất, phân phối lại thu nhập giúp cải thiện mức sống cho người
nghèo sẽ kích cầu trong nước đối với nhiều mặt hàng, đặc biệt là các
hàng hóa thiết yếu. Điều này sẽ kích thích sản xuất phát triển, việc làm
được tạo ra nhiều hơn và đồng thời gia tăng thu hút đầu tư trong nước,
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh.
Thứ hai, quá trình phân phối lại giúp người nghèo gia tăng thu nhập
và mức sống. Qua đó, cuộc sống của họ được cải thiện tốt hơn, nguy cơ
bệnh tật giảm, có cơ hội được học hành và tìm được công việc có thu
nhập ổn định. Điều này cũng đóng góp vào quá trình tăng trưởng, phát
triển của quốc gia.
Thứ ba, phân phối thu nhập công bằng hơn giúp người nghèo có
được sự ổn định về mặt tâm lý để vươn lên trong cuộc sống, không trở
thành vật cản đối với quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo là cần
thiết và nó không ảnh hưởng tới tính hiệu quả của nền kinh tế. Bởi những
người giàu có ở các nước đang phát triển thường sử dụng một phần lớn
thu nhập để tiêu dùng hàng hóa xa xỉ hay đầu tư vào vàng, ngoại tệ, đất
đai... - những loại đầu tư không đóng góp gì cho tăng trưởng sản xuất của
nền kinh tế.
Như vậy, phân phối thu nhập công bằng sẽ tạo ra sự hài hoà về lợi
111
- ích trong xã hội, là điều kiện quan trọng để xã hội ổn định và là động lực
cho tăng trưởng kinh tế.
4.2.3. Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả trên thực tế
Simon Kuznets là nhà kinh tế học tiên phong trong việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả trong thực tế. Với số liệu thống
kê về dân số và thu nhập nhiều năm của nhiều quốc gia khác nhau trên
thế giới, ông đã tìm ra mối quan hệ giữa hai vấn đề này.
Hình 4.2: Đường Kuznets
Sử dụng đồ thị với trục hoành là thu nhập bình quân đầu người - đại
diện cho tiến bộ kinh tế của một quốc gia, trục tung là hệ số Gini - đại
diện cho mức độ bất bình đẳng, kết quả nghiên cứu của Kuznets cho thấy
rằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tồn tại một mối quan
hệ theo dạng hình chữ U ngược. Điều đó có nghĩa là các quốc gia khi ở
giai đoạn đầu của sự phát triển luôn đi kèm với sự bất bình đẳng cao và
khi nền kinh tế phát triển đến một mức nào đó, lợi ích của sự phát triển
được chia sẻ rộng hơn cho các cá nhân trong xã hội thì mức độ bất bình
đẳng sẽ giảm xuống.
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cho thấy có 3 mô
hình giải quyết vấn đề công bằng và hiệu quả trong nền kinh tế :
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng trước, công bằng sau (kiểu chữ U ngược)
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Canada, Nhật, các
nước đang phát triển khu vực nam mỹ hiện nay. Theo mô hình này, các
112
- nước thường không quan tâm đến phân phối lại thu nhập ở giai đoạn đầu
của quá trình phát triển. Do vậy, trong giai đoạn này, cùng với sự tăng
trưởng (tăng thu nhập bình quân đầu người) thì bất bình đẳng trong nền
kinh tế có xu hướng tăng lên. Chỉ đến khi nền kinh tế đạt tới mức phát
triển nào đó, thu nhập bình quân đầu người cao, lúc đó bất bình đẳng mới
có xu hướng giảm xuống do chính phủ quan tâm đến quá trình phân phối
lại, làm cho thành quả tăng trưởng được phát huy một cách rộng rãi.
Thứ hai, mô hình công bằng trước, tăng trưởng sau
Mô hình này được áp dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa trước đây. Mô hình này nhấn mạnh vào các chính sách giải quyết
các vấn đề xã hội, tạo ra sự công bằng ngay từ đầu quá trình phát triển,
mặc dù tăng trưởng kinh tế đạt được ở mức độ thấp. Các chính sách phân
phối lại, chính sách phát triển con người như đầu tư vào văn hóa, giáo
dục, y tế được quan tâm. Do vậy, các quốc gia này đạt được mức độ khá
tốt về chỉ số xã hội, tuy nhiên nền kinh tế thiếu động lực phát triển nên
tốc độ tăng trưởng thấp.
Thứ ba, mô hình kết hợp đồng thời tăng trưởng và công bằng xã hội
Mô hình này được thực hiện ở những nước Bắc Âu và các nước NICs
châu Á. Chiến lược phát triển lựa chọn mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng
trưởng và công bằng xã hội thể hiện rõ ở sự can thiệp của chính phủ vào
các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự đồng bộ của hai yếu tố này.
Đặc trưng thứ nhất là lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng ra
xuất khẩu, khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh.
Đồng thời với đầu tư vào các ngành của nền kinh tế đảm bảo tăng
trưởng nhanh nhưng không gây ra gia tăng bất bình đẳng các quốc gia
phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sử dụng nhiều lao động và
các yếu tố đầu vào có sẵn trong nền kinh tế. Sự chuyển dich cơ cấu kinh
tế thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước.
Ngoài ra, các chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề
xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội được thực hiện như chính sách
về phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội, các dự án đầu tư cơ
sở hạ tầng giao thông cho các vùng khó khăn, hệ thống giáo dục đảm bảo
phổ cập giáo dục và đảm bảo cơ hội giáo dục cho người nghèo, hệ thống
y tế và chăm sóc sức khỏe.
113
- Các nhà kinh tế trên thế giới cho rằng bất bình đẳng gắn với phương
thức phát triển của nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế thường không trung
tính về mặt phân phối thu nhập: tăng trưởng có thể thay đổi phép phân
phối theo hướng bình đẳng hơn hoặc bất bình đẳng hơn. Điều đó tuỳ
thuộc vào “phương thức phát triển” mà quốc gia chọn lựa. Theo nhà kinh
tế học Pierre Salama, phương thức phát triển dựa vào cầu nội địa, đi liền
với phép phân phối thu nhập có tính bất bình đẳng thấp nhất; phương
thức phát triển bằng xuất khẩu, đi kèm với phép phân phối thu nhập
mang tính bất bình đẳng cao hơn; phương thức phát triển “tài chính hoá”,
tự do hoá thị trường vốn và kích thích hoạt động đầu cơ - đi đôi với một
xã hội cực kỳ bất bình đẳng.
Từ đó, có thể phân loại nhiều “chế độ tăng trưởng” khác nhau tùy
theo mối liên hệ giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập (biểu hiện qua
độ co giãn của nghèo đói đối với tăng trưởng): nếu tốc độ giảm tỷ lệ
nghèo và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân ngang nhau, có thể nói
rằng tăng trưởng là “trung tính” đối với phân phối thu nhập (độ co giãn
bằng -1); trong trường hợp tốc độ giảm nghèo vượt qua tốc độ tăng
trưởng thu nhập bình quân, có thể gọi tăng trưởng là “vì người nghèo”
(pro-poor), theo nghĩa chế độ tăng trưởng thay đổi phân phối thu nhập
theo hướng bình đẳng hơn, cho nên tỷ lệ nghèo giảm mạnh hơn (độ co
giãn lớn hơn -1); trong trường hợp tốc độ giảm nghèo thấp hơn tốc độ
tăng trưởng thu nhập bình quân, có thể gọi tăng trưởng là “trickle down”
(chảy ròng xuống), theo nghĩa chế độ tăng trưởng thay đổi phân phối thu
nhập theo hướng bất bình đẳng hơn, cho nên tỷ lệ nghèo có giảm nhưng
ít hơn (độ co giãn nhỏ hơn -1); trong trường hợp tỷ lệ nghèo tăng thay vì
giảm, bởi tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân tương đối thấp trong khi
bất bình đẳng trong phân phối lại tăng (độ co giãn trở nên dương), có thể
gọi đó là chế độ tăng trưởng “bần cùng hoá” (immiserizing).
Như vậy, tăng trưởng và công bằng trong nền kinh tế là những mục tiêu
tương hợp, không mâu thuẫn. Các chính sách của chính phủ đóng vai trò
quyết định đến việc giải quyết mối quan hệ này, bởi thực tế chỉ có một số ít
các chính sách được coi là hoàn thiện Pareto, còn hầu hết sẽ dẫn đến lợi cho
nhóm này và thiệt cho nhóm kia. Vì vậy, khi thiết kế và lựa chọn chính sách,
chính phủ đều cân nhắc kỹ tác động của nó tới công bằng (phân phối) và
hiệu quả kinh tế, hướng tới sự cân bằng trong cả 2 mục tiêu này.
114
- 4.3. Các lý thuyết, quan điểm về phân phối lại thu nhập
Các chính sách phân phối lại đều nhằm mục đích tối đa hoá phúc lợi
xã hội. Để đạt được mục tiêu này, trong phân tích về phúc lợi xã hội, cần
phải thỏa mãn điều kiện để đường bàng quan xã hội tiếp xúc với đường
khả năng thỏa dụng của xã hội.
Đường khả năng thoả dụng của xã hội là đường biểu thị mức thoả
dụng tối đa mà một cá nhân (hay nhóm người) có thể đạt được trong xã
hội khi cho trước mức thoả dụng của những cá nhân (hay nhóm người)
khác. Đường khả năng thoả dụng là đường biểu thị mức thoả mãn tối đa
mà một cá nhân (hay nhóm người) có thể đạt được trong xã hội khi thực
hiện phân phối lại.
Hình 4.3: Đường khả năng thỏa dụng xã hội
Hình dáng và tính chất của đường khả năng thoả dụng của xã hội
tương tự như đường khả năng sản xuất, chỉ có khác là hai trục tọa độ thể
hiện độ thoả dụng của các cá nhân trong xã hội. Theo đó, đường khả
năng thỏa dụng của xã hội là một đường cong lõm về phía gốc tọa độ và
mọi điểm nằm trên đường khả năng thỏa dụng (điểm E) là những điểm
đạt hiệu quả, những điểm nằm bên ngoài (điểm F) là không thể đạt tới và
những điểm nằm bên trong (điểm M) là chưa hiệu quả.
Mọi điểm nằm trên đường khả năng thoả dụng xã hội đều là những
điểm đạt hiệu quả Pareto (điểm E), khi đó nền kinh tế đạt được phân bổ
nguồn lực tối ưu Pareto. Nghĩa là sự phân bổ nguồn lực hiệu quả nên
115
- không làm cho người nào lợi hơn (giàu hơn) và không làm ai bị thiệt đi
(nghèo đi).
Giả sử mức thoả dụng (sự hài lòng) của các cá nhân trong nền kinh tế
đạt tới một điểm trên đồ thị, ví dụ điểm M, nằm phía trong đường khả
năng thoả dụng. Bất cứ sự thay đổi nào của chính phủ nhằm phân phối lại
nguồn lực sẽ làm sự thoả mãn hay hài lòng của các cá nhân tăng lên, di
chuyển đến gần đường khả năng thoả dụng hơn, như vậy sẽ là một hoàn
thiện Pareto (vì làm cho mọi người đều khá lên).
Đường khả năng thoả dụng mô tả tác động chính sách của chính phủ
tới sự thoả mãn hay hài lòng của các cá nhân trong xã hội. Thông thường,
một chính sách sẽ làm lợi cho nhóm người này, thiệt cho nhóm người
khác, chính sách đó có thể làm cho nền kinh tế tốt hơn nhưng chưa chắc
đã là một hoàn thiện Pareto bởi làm thiệt hại lợi ích của ai đó.
Như vậy, để so sánh được mức độ đánh đổi giữa thiệt hại hay lợi ích
của các cá nhân trong nền kinh tế khi thực hiện các chính sách kinh tế sử
dụng thêm phân phối lại thu nhập, các nhà kinh tế cần đường bàng quan
xã hội.
Đường bàng quan xã hội là tập hợp của tất cả các điểm kết hợp giữa
sự thoả mãn, hài lòng của mọi thành viên trong xã hội mà những điểm đó
mang lại mức phúc lợi xã hội bằng nhau. Đường bàng quan xã hội biểu
diễn những tập hợp độ thoả dụng của 2 nhóm cá nhân mà xã hội bàng
quan. Xã hội sẵn lòng đánh đổi khi tăng sự thoả mãn của nhóm này lên
hoặc giảm sự thoả mãn của nhóm kia đi.
Hình 4.4: Đường bàng quan xã hội
116
- Đường bàng quan xã hội có hình dáng và tính chất tương tự đường
bàng quan cá nhân. Điểm khác biệt duy nhất là hai trục tọa độ của đường
bàng quan xã hội thể hiện độ thỏa dụng của từng cá nhân trong xã hội.
Theo đó, đường bàng quan xã hội là một tập hợp các đường cong lồi về
phía gốc toạ độ và không cắt nhau; các điểm trên cùng một đường bàng
quan (M, N) mang lại cùng một mức phúc lợi xã hội như nhau (W1) và
điểm nằm trên đường bàng quan cao hơn (E) phản ánh mức phúc lợi xã hội
lớn hơn (W2).
Để xác định cách phân phối lại thu nhập xã hội tối ưu, chúng ta cần
kết hợp đường khả năng thoả dụng và đường bàng quan xã hội. Từ đồ thị
Hình 4.5, chúng ta thấy rằng điểm hiệu quả như M sẽ không được xã hội
ưa thích bằng một điểm chưa hiệu quả như N vì điểm N nằm trên đường
bàng quan cao hơn, phản ánh mức phúc lợi xã hội lớn hơn; và điểm phân
phối hiệu quả tại E sẽ mang lại phúc lợi xã hội lớn nhất.
Hình 4.5: Phân phối lại thu nhập tối ưu
Điểm E, điểm tối đa hoá PLXH, đường khả năng thoả dụng của xã
hội đã tiếp xúc với đường bàng quan cao nhất có thể đạt tới. Rõ ràng, một
điểm phân phối PLXH tối ưu chắc chắn phải là một điểm hiệu quả
Pareto. Như vậy, chúng ta đã có đủ các công cụ cần thiết để phân tích
một số lý thuyết nổi bật về phân phối lại thu nhập và tối đa hoá phúc lợi
xã hội. Phân phối lại có thể tạo ra sự đánh đổi phúc lợi xã hội giữa các
117
- nhóm người trong nền kinh tế nhưng nguyên tắc là phải đạt tới đường
bàng quan xã hội cao nhất, nghĩa là đạt PLXH cao hơn.
4.3.1. Thuyết vị lợi
Thuyết vị lợi được xây dựng dựa trên quan điểm triết học về phúc lợi
do Jeremy Bentham đề xướng đầu thế kỷ XIX. Thuyết này được nghiên
cứu dựa trên một số giả định sau:
Thứ nhất, các cá nhân có hàm thoả dụng biên đồng nhất và chỉ phụ
thuộc vào thu nhập.
Thứ hai, các hàm thoả dụng biên tuân theo quy luật độ thoả dụng
biên giảm dần.
Thứ ba, tổng mức thu nhập sẵn có là cố định và không thay đổi trong
quá trình phân phối lại.
Về nội dung, thuyết vị lợi cho rằng phúc lợi xã hội chỉ phụ thuộc vào
độ thoả dụng của các cá nhân trong xã hội. Theo đó, phúc lợi xã hội là
tổng đại số độ thoả dụng của tất cả các thành viên trong xã hội và để tăng
phúc lợi xã hội chỉ cần tăng độ thỏa dụng của bất kỳ một thành viên nào
trong xã hội đó.
Nếu biểu diễn phúc lợi xã hội dưới dạng hàm toán học thì ta có:
n
W = U1 + U2 + ... + Un = ∑U
i =1
i
Giả sử xã hội có 2 cá nhân thì phúc lợi xã hội là tổng độ thoả dụng
của hai cá nhân đó. Với giả định rằng tổng thu nhập của xã hội là không
đổi nên người này có thêm thì người khác phải bớt đi, do hàm thoả dụng
biên giữa các cá nhân là đồng nhất, chỉ có độ thoả dụng biên khác nhau
ở các mức thu nhập khác nhau nên xã hội có thể tăng tổng PLXH bằng
cách chuyển bớt thu nhập của người giàu cho người nghèo.
Đường bàng quan xã hội là đường thẳng vì một chính sách làm giảm
sự thoả mãn của nhóm này đi bao nhiêu thì sẽ tăng lợi ích của nhóm khác
bấy nhiêu, có sự đánh đổi ngang bằng.
Từ hàm PLXH có thể thấy rằng, thuyết vị lợi coi lợi ích của người
giàu và người nghèo có trọng số như nhau. Vì thế, xã hội hoàn toàn bàng
quan trước việc độ thoả dụng của người nghèo giảm xuống, nếu từ đó
thoả dụng của người giàu tăng lên một mức tương đương.
118
- Hình 4.6: Đường bàng quan xã hội theo thuyết vị lợi
Một cách phân phối khiến cho độ thỏa dụng của người nghèo giảm
xuống và độ thoả dụng của người giàu tăng lên một mức tương đương thì
phúc lợi xã hội vẫn không có sự cải thiện. Vì vậy, đường bàng quan xã
hội của thuyết vị lợi sẽ là một đường tuyến tính có độ dốc bằng -1.
Vậy Chính phủ có nên phân phối lại thu nhập xã hội hay không? Và
nếu có thì điều kiện phân phối tối ưu là gì?
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần sử dụng tới các giả định của
thuyết vị lợi và sử dụng đồ thị để phân tích. Xét một nền kinh tế với 2 cá
nhân A & B cùng chia sẻ nhau mức tổng thu nhập không thay đổi trong
quá trính phân phối lại là OO’. Trong đó, thu nhập của A tính từ gốc O
và thu nhập của B tính từ gốc O’. Độ thoả dụng biên của các cá nhân chỉ
phụ thuộc vào thu nhập và tuân theo quy luật độ thỏa dụng biên giảm dần
nên MUA và MUB có dạng như đồ thị:
Hình 4.7: Phân phối lại thu nhập tối ưng theo thuyết vị lợi
119
- Giả sử ban đầu A giữ OX đồng thu nhập, còn B giữ XO’ đồng. Như
vậy, A là người giàu và B là người nghèo. Nếu tiến hành phân phối lại và
chuyển XY đồng thu nhập từ A sang B thì độ thoả dụng của A giảm đi
phần diện tích XYGH và độ thoả dụng của B tăng thêm phần diện tích
XYQP. Xét trong toàn nền kinh tế, phúc lợi sẽ tăng thêm phần diện tích
GHPQ. Tiếp tục chuyển thêm YZ đồng thu nhập từ A sang B, phúc lợi xã
hội tăng thêm phần diện tích EGQ. Nếu vẫn tiến hành phân phối lại,
chuyển giao thêm ZK đồng thu nhập từ A sang B, lúc này độ thỏa dụng
của A bị giảm đi phần diện tích KZEM trong khi độ thỏa dụng của B chỉ
tăng thêm phần diện tích KZEN, điều này khiến cho phúc lợi xã hội sẽ bị
tổn thất phần diện tích EMN. Do đó, việc tiến hành phân phối lại sẽ dừng
tại điểm Z bởi tại đó phúc lợi xã hội tăng thêm được nhiều nhất, khi đó
MUA=MUB và mỗi cá nhân nắm giữ một nửa thu nhập của nền kinh tế.
Điều này tạo ra một sự bình đẳng tuyệt đối trong xã hội.
Như vậy, điều kiện để phân phối thu nhập tối ưu theo thuyết vị lợi
là Chính phủ nên tiến hành phân phối lại cho đến khi độ thỏa dụng biên
của các cá nhân bằng nhau: MU1=MU2...=MUn.
Tuy nhiên, kết quả này hoàn toàn phụ thuộc vào các giả định đã nêu.
Nếu các giả định được thoả mãn thì kết quả của phân phối lại thu nhập sẽ
đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối giữa các cá nhân trong xã hội. Nhưng các
giả định được đánh giá là không có trên thực tế, do vậy hạn chế của
thuyết vị lợi sẽ là:
Thứ nhất, nếu các cá nhân có các hàm thoả dụng biên khác nhau thì
chưa chắc điểm phân phối thu nhập tối ưu tại Z (điểm giữa OO’), tức là
phân phối thu nhập theo thuyết vị lợi chưa chắc đã mang lại sự bình đẳng
tuyệt đối.
Thứ hai, quy luật độ thoả dụng biên giảm dần đúng với đa số các
hàng hoá nhưng chưa chắc đã đúng với thu nhập. Nếu mức thoả dụng
biên theo thu nhập của các cá nhân đều không đổi, tức là đường MUA và
MUB đều nằm ngang thì mỗi đồng lấy đi từ người B sẽ làm anh ta mất đi
một mức thoả dụng đúng bằng mức thoả dụng tăng thêm khi A có đồng
thu nhập ấy. Khi đó, chính sách phân phối lại của Chính phủ không có ý
nghĩa gì đối với việc cải thiện PLXH.
120
nguon tai.lieu . vn