- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Giáo trình Cây công nghiệp ngắn ngày (Nghề: Bảo vệ thực vật - Cao đẳng): Phần 2 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Xem mẫu
- CHƯƠNG 2
CÂY ĐẬU NÀNH
Giới thiệu:
Cây đậu nành rất được chú trọng phát triển ở nước ta cũng như nhiều nước
khác trên thế giới. Đặc biệt, nhiều nhà khoa học đã xem đậu nành là chìa khoá
để giải quyết nạn thiếu protein trong dinh dưỡng của con người (nhất là ở các
nước chậm phát triển) và vấn đề bảo vệ độ phì của đất nhờ khả năng cố định
đạm. Ngay ở các nước có nền nông nghiệp phát triển, cây đậu nành vẫn được
đánh giá cao. Ở Liên Xô, đậu nành được xem là “vàng của thảo nguyên”. Người
Mỹ gọi đậu nành là “vàng mọc từ đất”, “mặt hàng có giá trị chiến lược”.
Mục tiêu:
Kiến thức: trình bày được tình hình sản xuất, nguồn gốc, giá trị sử dụng, yêu
cầu điều kiện ngoại cảnh, đặc điểm thực vật học, kỹ thuật canh tác, các loại sâu
bệnh và biện pháp quản lý trên cây đậu nành.
Kỹ năng: thực hiện được, hướng dẫn thực hiện được quy trình kỹ thuật canh
tác và quản lý sâu bệnh gây hại trên cây đậu nành.
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: có phẩm chất đạo đức tốt và nhận thức đúng
đắn về môn học, có thái độ hợp tác với bạn bè, tôn trọng pháp luật và các quy định
của nhà trường; có ý thức trách nhiệm trong học tập, có khả năng làm việc theo
nhóm; có phương pháp làm việc khoa học, sáng tạo và luôn cập nhật thông tin.
1. Tình hình sản xuất trong nước và trên thế giới
1.1. Trong nước
Cây đậu nành ở nước ta có lịch sử phát triển lâu đời. Mặc dù vậy, trong thời
gian hàng chục năm qua, diện tích trồng đậu nành của cả nước ta hiện nay chỉ đạt
249,2 ngàn ha (Bảng 2.1).
25
- Bảng 2.1: Diện tích trồng đậu nành của một số tỉnh ở Việt Nam (ngàn ha) (Tổng
Cục thống kê, 2009).
Năm 2005 2006 2007 2008 Sơ bộ 2009
Cả nước 269,6 246,7 254,5 255,3 249,2
Vĩnh Phúc 4,1 2,7 4,1 4,6 3,7
Hà Tây 5,0 4,5 4,8
Hưng Yên 1,9 1,5 1,7 1,4 1,1
Hà Nam 1,2 0,9 0,9 0,6 0,5
Hà Giang 3,7 4,3 4,3 5,6 6,5
Đắk Nông 8,2 7,7 8,7 8,3 7,8
Trà Vinh 3,6 3,4 3,9 4,1 4,3
Đồng Tháp 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
An Giang 0,5 0,6 0,7 0,6 0,5
Điều tra nông dân trồng đậu nành tại huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long thì
vốn đầu tư cho 1 ha bình quân là 5,5 triệu đồng, năng suất bình quân là 1,5 - 2
tấn/ha, như vậy giá thành 1 kg là 2750 đồng/kg đến 3800 đồng/kg. So với giá
thành đậu nành sản xuất tại Mỹ thì giá thành sản xuất của Việt Nam cao hơn nhiều
lần. Như vậy, khi xuất khẩu với giá hiện nay là 216 USD/tấn (3500 đồng/kg)
(Darrel Good, 2007), thì đậu nành Việt Nam không có khả năng cạnh tranh với
đậu nành các nước trên thế giới. Theo Cục Trồng Trọt (2006), mỗi năm cả nước
trồng khoảng 200 ngàn ha đậu nành, chủ yếu trong vụ đông với sản lượng 300
nghìn tấn. Sản lượng này mới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu sử dụng trong nước.
Mỗi năm, cả nước vẫn nhập khẩu gần một triệu tấn hạt đậu nành và nhu cầu sử
dụng tăng bình quân 10%. Theo Trần Thượng Tuấn (2006), đồng bằng sông Cửu
Long có thể đạt năng suất cao nhất nước nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với Mỹ,
Brazil và một số nước khác, chưa nói là chi phí phòng trừ sâu bệnh rất cao, hơn
nữa Mỹ còn trợ giá cho đậu nành rất nhiều. Vì vậy, trước khi quyết định mở rộng
sản xuất ra ngoài các địa bàn truyền thống, bước đi cần thiết phải làm trước là đầu
tư nghiên cứu tạo ra giống mới và quy trình canh tác, giảm giá thành sản xuất,
đảm bảo sản phẩm thu được có tính cạnh tranh trên thị trường.
1.2. Trên thế giới
Cây đậu nành được trồng rộng rãi từ bắc vĩ tuyến thứ 48 đến Nam vĩ tuyến
thứ 30. Sản xuất đậu nành đã gia tăng mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Cây đậu nành đã nhanh chóng chiếm lĩnh địa bàn sản xuất mới và ngày nay cây
đậu nành đã có mặt ở khắp các lục địa.
Diện tích sản xuất đậu nành trên thế giới gia tăng nhanh chóng. Nếu trong
các năm 1938 - 1940, diện tích trồng đậu nành trên thế giới đạt 12,4 triệu ha (FAO,
2002), thì đến năm 2009 đã tăng lên 99 triệu ha (FAO, 2010). Cùng với sự mở
26
- rộng, tổng sản lượng đậu nành trên thế giới cũng tăng vọt, năm 1938 chỉ mới đạt
12,3 triệu tấn (FAO, 2002) thì đến nay sản lượng trung bình của năm 2009 là 222
triệu tấn (Bảng 2.2). Hiện nay, Mỹ đã vươn lên đứng ở vị trí hàng đầu sản xuất
đậu nành. Diện tích trồng đậu nành năm 2009 của Mỹ 30,9 triệu ha, với 91,4 triệu
tấn sản phẩm, chiếm gần phân nửa tổng sản lượng đậu nành của thế giới. Sau Mỹ,
nước Brazil cũng đã có bước phát triển nhảy vọt trong sản xuất đậu nành.
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng đậu nành của một số nước trên thế giới
(FAO, 2010).
Quốc gia Diện tích (1.000 Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (1.000
ha) tấn)
Thế giới 98827 2,25 222269
Mỹ 30907 2,96 91417
Brazil 21760 2,62 56961
Argentina 16767 1,85 30993
Ấn Độ 9600 1,06 10217
Trung Quốc 8800 1,65 14500
Canada 1382 2,54 3503
Việt Nam 146 1,46 214
Mexico 65 1,86 120
2. Nguồn gốc, phân loại và chọn giống đậu nành
2.1. Nguồn gốc
Nguồn gốc chính xác của cây đậu nành vẫn chưa được xác định một cách
chắc chắn, cơ sở đầu tiên của những dự đoán về nguồn gốc địa lý của cây đậu
nành là các thư tịch cổ của Trung Quốc. Về lịch sử cây đậu nành được tìm thấy
trong Bản thảo kinh” của Trung Quốc do Hoàng đế Thần nông viết vào năm 2838
trước công nguyên. Từ Trung Quốc, cây đậu nành đã được lan truyền dần ra khắp
thế giới. Theo các nhà nghiên cứu của Nhật Bản, cây đậu nành đã được đưa vào
Triều Tiên và sau đó phát triển sang Nhật Bản vào khoảng 200 năm trước công
nguyên. Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, đậu nành phát triển sang các nước Tây
Âu và đến mãi đầu thế kỷ XX, đậu nành mới được trồng ở Châu Mỹ. Nước ta có
quan hệ giao lưu lâu đời với Trung Quốc về văn hoá và xã hội, nên có nhiều khả
năng đã quen thuộc với cây đậu nành từ thời rất xa xưa.
2.2. Phân loại
Cây đậu nành có tên khoa học là Glycine max (L) Mercill, là loại cây họ đậu
(Fabaceae). Đậu nành là cây hàng năm, có dạng buội, số cành của cây thay đổi
tuỳ theo đặc tính di truyền của giống và điều kiện môi trường. Phạm vi phân bố
rộng của loài và tính thích nghi hẹp của các giống, đã đưa đến sự hình thành một
tập đoàn đậu nành của thế giới với nhiều dạng hình rất phong phú.
27
- 2.3. Chọn giống đậu nành
Giống giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Về
mặt kinh tế, việc chọn đúng các giống thích hợp có năng suất cao để đưa vào sản
xuất là biện pháp rẽ tiền nhất để nâng cao năng suất cho cây trồng. Riêng đối với
cây đậu nành là cây mẫn cảm với ngoại cảnh thì việc xác định cho đúng giống để
gieo trồng trong điều kiện tự nhiên và canh tác cần phải được quan tâm đúng mức
hơn. Hiện nay, mỗi một vùng sinh thái có một bộ giống địa phương khác nhau.
Các giống địa phương đã tồn tại và được gieo trồng từ lâu đời, nên thường có ưu
điểm là tính chống chịu rất tốt và thường là có chất lượng cao. Các giống nhập
nội hay mới chọn tạo gần đây cũng thể hiện rất nhiều ưu điểm cả về năng suất và
tính thích ứng với từng vùng. Các giống tuyển chọn phù hợp cho đồng bằng sông
Cửu Long cần có các tiêu chuẩn sau:
- Có khả năng cho năng suất cao và ổn định.
- Có thời gian sinh trưởng ngắn, khoảng 90 ngày trở lại tùy theo vụ.
- Có khả năng thích nghi tương đối rộng, ít quang cảm để có thể trồng được
ở nhiều vùng và nhiều mùa vụ khác nhau, nhằm giải quyết khó khăn trong vấn đề
hạt giống.
- Có khả năng sinh trưởng trong điều kiện đất chua, có thành phần cơ giới
nặng.
- Có khả năng kháng các loại sâu bệnh chính trong vùng.
- Kháng đổ ngã.
- Có khả năng tạo nốt sần tốt đối với các dòng vi khuẩn R. japonicum tự
nhiên.
- Có phẩm chất hạt tốt, trước tiên là có hàm lượng protein cao.
- Hạt giống chậm mất sức nảy mầm trong quá trình bảo quản.
3. Giá trị sử dụng
3.1. Giá trị dinh dưỡng
Đậu nành còn gọi là đậu tương là một cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh
tế cao. Khó có thể có tìm thấy một cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như cây
đậu nành. Sản phẩm của nó làm thực phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc,
nguyên liệu cho công nghiệp, hàng xuất khẩu và là cây cải tạo đất tốt. Vì thế, cây
đậu nành được gọi là "Ông Hoàng trong các loại cây họ đậu ". Sở dĩ cây đậu nành
được đánh giá như vậy bởi lẽ cây đậu nành có giá trị rất toàn diện.
28
- Hạt đậu nành có thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng prôtein trung bình
khoảng từ 35,5 - 40%. Trong khi đó hàm lượng prôtein trong gạo chỉ 6,2 - 12%;
bắp: 9,8 - 13,2%; thịt bò: 21%; thịt gà: 20%; cá: 17 - 20% và trứng: 13 - 14,8%,
lipit từ 15- 20%, hyđrat cacbon từ 15-16%, nhiều loại sinh tố và muối khoáng
quan trọng cho sự sống. Hạt đậu nành là loại thực phẩm duy nhất mà giá trị của
nó được đánh giá đồng thời cả prôtit và lipit. Prôtein của đậu nành có phẩm chất
tốt nhất trong số các prôtein có nguồn gốc thực vật. Hàm lượng prôtein trong hạt
đậu nành cao hơn cả hàm lượng prôtein có trong cá, thịt và cao gấp 2 lần so với
các loại đậu đỗ khác.
3.2. Giá trị kinh tế
a. Giá trị về mặt công nghiệp
Đậu nành là nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp khác nhau như: chế
biến cao su nhân tạo, sơn, mực in, xà phòng, chất dẻo, tơ nhân tạo, chất đốt lỏng,
dầu bôi trơn trong ngành hàng không, nhưng chủ yếu đậu nành được dùng để ép
dầu.
b. Giá trị về mặt nông nghiệp
Làm thức ăn cho gia súc: đậu nành là nguồn thức ăn tốt cho gia súc. Toàn
cây đậu nành (thân, lá, quả, hạt) có hàm lượng đạm khá cao cho nên các sản phẩm
phụ như thân, lá tươi có thể làm thức ăn cho gia súc rất tốt, hoặc nghiền khô làm
thức ăn tổng hợp của gia súc. Sản phẩm phụ công nghiệp như khô dầu có thành
phần dinh dưỡng khá cao: N: 6,2%, P2O5: 0,7%, K2O: 2,4%, vì thế làm thức ăn
cho gia súc rất tốt.
Cải tạo đất: đậu nành là cây luân canh cải tạo đất tốt, 1 ha trồng đậu nành
nếu sinh trưởng, phát triển tốt để lại trong đất từ 30-60 kg N.
Trong hệ thống luân canh, nếu bố trí cây đậu nành vào cơ cấu cây trồng hợp
lý sẽ có tác dụng tốt đối với cây trồng sau, góp phần tăng năng suất cả hệ thống
cây trồng mà giảm chi phí cho việc bón N. Thân lá đậu nành dùng bón ruộng thay
phân hữu cơ rất tốt bởi hàm lượng N trong thân chiếm 0,05%, trong lá: 0,19%.
4. Đặc điểm thực vật
4.1. Rễ
Rễ cây đậu nành khác với rễ cây hoà thảo là có rễ chính và rễ phụ. Rễ chính
có thể ăn sâu 30-50 cm và có thể trên 1 m. Trên rễ chính mọc ra nhiều rễ phụ, rễ
phụ cấp 2, cấp 3 tập trung nhiều ở tầng đất 7-8 cm rộng 30-40 cm2. Trên rễ chính
và rễ phụ có nhiều nốt sần. Bộ rễ phân bố nông sâu, rộng hẹp, số lượng nốt sần ít
hay nhiều phụ thuộc vào giống, đất đai, khí hậu và kỹ thuật trồng. Quá trình phát
triển của bộ rễ có thể phân ra làm 2 thời kỳ:
29
- Thời kỳ thứ nhất: phát triển lớp rễ đầu tiên, thời kỳ này rễ cái và rễ phụ đầu
tiên phát triển mạnh kéo dài ra và sinh nhiều rễ con. Thời kỳ này thường kéo dài
từ 30-40 ngày sau mọc.
Thời kỳ thứ hai: lớp rễ đầu tiên phát triển chậm dần, rễ con không nhú ra nữa
thậm chí có một số rễ con khô đi. Lúc này gốc thân gần cổ rễ các rễ phụ nhỏ kéo
dài ra và phát triển cho tới khi gần thu hoạch. Số lượng có thể 30-40 rễ phụ ăn ở
phía gần mặt đất. Lớp rễ này có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho
sự phát triển của thân, lá và làm trái. Trong kỹ thuật trồng nên chú ý thời kỳ này,
cần vun đất sao cho lớp rễ này phát triển mạnh.
Một đặc điểm hết sức quan trọng cần lưu ý là trên bộ rễ của cây đậu nành có
rất nhiều nốt sần. Đó là các u bướu nhỏ bám vào các rễ. Nốt sần là kết quả cộng
sinh của một số loại vi sinh vật có tên khoa học là Rhizobium japonicum với rễ
cây đậu nành. Trong một nốt sần có khoảng 3-4 tỷ vi sinh vật, mà ta chỉ có thể
nhìn thấy chúng qua kính hiển vi phóng đại 600 - 1000 lần. Vi sinh vật thường có
dạng hình cầu hoặc hình que.
4.2. Thân
a. Hình thái và màu sắc của thân
Thân cây đậu nành thuộc thân thảo, có hình tròn, trên thân có nhiều lông nhỏ.
Thân khi còn non có màu xanh hoặc màu tím khi về già chuyển sang màu nâu
nhạt, màu sắc của thân khi còn non có liên quan chặt chẽ với màu sắc của hoa sau
này. Nếu thân lúc còn non màu xanh thì hoa màu trắng và nếu khi còn non thân
có màu tím thì hoa có màu tím đỏ.
Thân có trung bình 14-15 lóng, các lóng ở phía dưới thường ngắn, các lóng
ở phía trên thường dài (vì những lóng phía trên phát triển từ ngày 35 - 40 trở đi
vào lúc cây đang sinh trưởng nhanh nên lóng thường dài). Tùy theo giống và thời
vụ gieo mà chiều dài lóng có sự khác nhau thường biến động từ 3 - 10 cm. Cây
đậu nành trong vụ hè thường có lóng dài hơn vụ xuân và vụ đông. Chiều dài của
lóng góp phần quyết định chiều cao của thân. Thân cây đậu nành thường cao từ
0,3 m - 1,0 m. Giống đậu nành dại cao 2-3 m. Những giống thân nhỏ, lóng dài dễ
bị đổ hay mọc bò thường làm thức ăn cho gia súc. Những giống thân to thường là
thân đứng và có nhiều hạt và chống được gió bão. Toàn thân có một lớp lông tơ
ngắn, mọc dày bao phủ từ gốc lên đến ngọn, đến cả cuống lá. Thực tế cũng có
giống không có lông tơ. Những giống có mật độ lông tơ dày, màu sẫm có sức
kháng bệnh, chịu hạn và chịu rét khỏe. Ngược lại, những giống không có lông tơ
thường sinh trưởng không bình thường, sức chống chịu kém. Thân có lông tơ
nhiều, ít, dài, ngắn, dày, thưa là một đặc điểm phân biệt giữa các giống với nhau.
30
- b. Tập tính sinh trưởng của thân
Căn cứ vào tập tính sinh trưởng và đặc điểm của thân người ta chia ra làm 4
loại:
- Loại mọc thẳng: thân cứng, đường kính thân lớn, thân không cao lắm, đốt
ngắn, trái nhiều tập trung thường là giống ra hoa hữu hạn.
- Loại bò: thân chính phân cành rất nhỏ, mềm, phủ trên mặt đất thành đám
dây, thân rất dài, đốt dài, trái nhỏ phân tán.
- Loại nửa bò: là loại trung gian giữa 2 loại mọc thẳng và mọc bò trên.
- Loại mọc leo: thân nhỏ rất dài, mọc bò dưới đất hoặc leo lên giá thể khác.
Thân đậu nành có khả năng phân cành ngay từ nách lá đơn hoặc kép. Những
cành trên thân chính phân ra gọi là cành cấp 1, trên cành cấp 1 có thể phân ra cành
cấp 2. Số lượng cành trên một cây nhiều hay ít thay đổi theo giống, thời vụ, mật
độ gieo trồng và điều kiện canh tác. Trung bình trên 1 cây thường có 2-5 cành, có
một số giống trong điều kiện sinh trưởng tốt có thể có trên 10 cành. Thường sau
mọc khoảng 20 - 25 ngày thì cây đậu nành bắt đầu phân cành. Vị trí phân cành
phù hợp là cao trên 15 cm, nếu thấp quá không có lợi cho việc cơ giới hoá. Giống
đậu nành có góc độ phân cành càng hẹp thì càng tốt cho việc tăng mật độ. Căn cứ
vào tập tính sinh trưởng của thân cành và đặc điểm ra hoa người ta chia các giống
đậu nành ra làm 2 loại:
+ Sinh trưởng hữu hạn: khi ngọn thân hoặc ngọn cành đã ra hoa, thì không
tiếp tục sinh trưởng nữa hay cành không cao lên nữa, loại này thường trồng lấy
hạt.
+ Sinh trưởng vô hạn: khi đậu nành ra hoa kết trái và cả khi sắp chín thân
cành vẫn tiếp tục sinh trưởng, thường là loại mọc bò được trồng làm thức ăn cho
gia súc.
c. Quá trình phát triển của thân
- Từ lúc mọc đến khi cây có 5 lá thật (3 lá kép) khoảng 25-30 ngày sau khi
gieo, thân sinh trưởng với tốc độ bình thường.
- Khi cây đã có 6-7 lá thật (4-5 lá kép) thân bắt đầu phát triển mạnh, tốc độ
mạnh nhất vào lúc ra hoa rộ. Sự khác biệt của cây đậu nành với cây trồng khác là
khi cây ra hoa rộ lại là lúc thân cành phát triển mạnh nhất. Đây là giai đoạn 2 quá
trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực cạnh tranh nhau dẫn đến
khủng hoảng thiếu dinh dưỡng, cho nên cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng
trước khi vào thời kỳ này và tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển thuận lợi. Trong kỹ
31
- thuật chăm sóc ta phải xới vun kết hợp với bón thúc phân cho đậu nành vào giai
đoạn 3-5 lá kép, lúc cây có đầy đủ hoa thì sinh trưởng chậm dần rồi dừng hẳn.
4.3. Lá
Cây đậu nành có 3 loại lá
Lá mầm (lá tử diệp): lá mầm mới mọc có màu vàng hay xanh lục, khi tiếp
xúc với ánh sáng thì chuyển sang màu xanh. Hạt giống to thì lá mầm chứa nhiều
dinh dưỡng nuôi cây mầm, khi hết chất dinh dưỡng lá mầm khô héo đi, cho nên
trong kỹ thuật trồng đậu nành nên làm đất tơi nhỏ và chọn hạt to cây sẽ mọc khoẻ,
sinh trưởng tốt.
Lá nguyên (lá đơn): lá nguyên xuất hiện sau khi cây mọc từ 2-3 ngày và mọc
phía trên lá mầm. Lá đơn mọc đối xứng nhau. Lá đơn to, màu xanh bóng là biểu
hiện cây sinh trưởng tốt. Lá đơn to, xanh đậm biểu hiện của một giống có khả
năng chịu rét. Lá đơn nhọn gợn sóng là biểu hiện cây sinh trưởng không bình
thường.
Lá kép: mỗi lá kép có 3 lá chét, có khi 4-5 lá chét. Lá kép mọc so-le, lá kép
thường có màu xanh tươi khi già biến thành màu vàng nâu. Cũng có giống khi trái
chín lá vẫn giữ được màu xanh, những giống này thích hợp trồng làm thức ăn gia
súc. Phần lớn trên lá có nhiều lông tơ. Lá có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo
giống, những giống lá nhỏ và dài chịu hạn khoẻ nhưng thường cho năng suất thấp.
Những giống lá to chống chịu hạn kém nhưng thường cho năng suất cao hơn. Nếu
2 lá kép đầu to và dày thường biểu hiện giống có khả năng chống chịu rét. Số
lượng lá kép nhiều hay ít, diện tích lá to hay nhỏ chi phối rất lớn đến năng suất và
phụ thuộc vào thời vụ gieo trồng. Các lá nằm cạnh chùm hoa nào giữ vai trò chủ
yếu cung cấp dinh dưỡng cho chùm hoa ấy. Nếu vì điều kiện nào đó làm cho lá bị
úa vàng thì trái ở vị trí đó thường bị rụng hoặc lép. Các nhà chọn giống đậu nành
đưa ra cơ sở để nâng cao năng suất đậu nành là tăng cường quá trình quang hợp
và muốn quang hợp với hiệu quả cao thì phải chọn những cây có bộ lá nhỏ, dày,
thế lá đứng và lá có dạng hình trứng.
Số lá nhiều, to, khỏe nhất vào thời kỳ đang ra hoa rộ. Khi phiến lá phát triển
to, rộng, mỏng, phẳng, có màu xanh tươi là biểu hiện cây sinh trưởng khoẻ, có
khả năng cho năng suất cao.
4.4. Hoa
a. Hình thái và cấu tạo
Hoa đậu nành nhỏ, không hương vị, thuộc loại cánh bướm. Màu sắc của hoa
thay đổi tuỳ theo giống và thường có màu tím, tím nhạt hoặc trắng (Hình 2.1). Đa
phần các giống có hoa màu tím và tím nhạt. Các giống đậu nành có hoa màu trắng
32
- thường có tỷ lệ dầu cao hơn các giống màu tím. Hoa phát sinh ở nách lá, đầu cành
và đầu thân.
Hoa mọc thành từng chùm, mỗi chùm có từ 1-10 hoa và thường có 3-5 hoa.
Hoa đậu nành ra nhiều nhưng tỷ lệ rụng rất cao khoảng 30% có khi lên tới 80%.
Hoa đậu nành thuộc loại hoa đồng chu lưỡng tính trong hoa có nhị và nhụy, mỗi
hoa gồm 5 lá đài, 5 cánh hoa có 10 nhị và 1 nhụy.
+ Đài hoa có màu xanh, nhiều bông.
+ Cánh hoa: một cánh to gọi là cánh cờ, 2 cánh bướm và 2 cánh thìa.
+ Nhị đực: 9 nhị đực cuốn thành ống ôm lấy vòi nhụy cái và 1 nhị riêng lẻ.
+ Nhụy cái: bầu thượng, tử phòng một ngăn có 1-4 tâm bì (noãn) nên thường
quả đậu nành có 2-3 hạt. Các cánh hoa vươn ra khỏi lá đài từ ngày hôm trước và
việc thụ phấn xảy ra vào sáng ngày hôm sau lúc 8-9 giờ sáng trước khi nụ hoặc
hoa chưa nở hoàn toàn. Mùa hè hoa thường nở sớm hơn mùa đông và thời gian
nở hoa rất ngắn sáng nở chiều tàn. Hoa đậu nành thường thụ phấn trước khi hoa
nở và là cây tự thụ phấn, tỷ lệ giao phấn rất thấp chiếm trung bình 0,5 - 1%.
b. Đặc điểm của sự nở hoa đậu nành
Thời gian bắt đầu ra hoa sớm hay muộn, dài hay ngắn tuỳ thuộc vào giống
và thời tiết khác nhau. Giống chín sớm sau mọc trên dưới 30 ngày đã ra hoa và
giống chín muộn 45-50 ngày mới ra hoa. Thời gian ra hoa dài hay ngắn theo giống
và theo thời vụ. Có những giống thời gian ra hoa chỉ kéo dài 10-15 ngày. Kết quả
nghiên cứu cho thấy thời kỳ hoa rộ thường từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 10 sau khi
hoa bắt đầu nở. Hoa trong đợt rộ mới tạo trái nhiều, còn trước và sau đợt hoa rộ
thì tỷ lệ đậu trái thấp. Điều kiện thích hợp cho sự nở hoa là ở nhiệt độ 25-28oC,
ẩm độ không khí 75- 80%, ẩm độ đất 70-80%. Căn cứ vào phương thức ra hoa
người ta chia các giống đậu nành làm 2 nhóm:
+ Nhóm ra hoa hữu hạn: thuộc những giống sinh trưởng hữu hạn, hướng ra
hoa theo trình tự từ trên xuống dưới và từ ngoài vào trong. Những giống này
thường cây thấp ra hoa tập trung, trái và hạt đồng đều.
+ Nhóm ra hoa vô hạn: thuộc những giống sinh trưởng vô hạn, có hướng ra
hoa theo trình tự từ dưới lên trên và từ trong ra ngoài. Những giống này thường
ra hoa rất phân tán, trái chín không tập trung và phẩm chất hạt không đồng đều.
Trong thực tế, những giống hoa tập trung nếu gặp điều kiện bất thuận, hoa sẽ rụng
nhiều nên thất thu nặng. Còn những giống thời gian ra hoa dài tuy trái chín không
tập trung nhưng nếu bị rụng vào một đợt thì hoa sẽ ra tiếp đợt sau nên không thất
thu nặng. Một hoa có từ 1800 - 6800 hạt phấn tuỳ theo giống khác nhau, giống
hạt to thì có bao phấn to và nhiều hạt phấn. Hạt phấn thường hình tròn, số lượng
33
- và kích thước hạt phấn tuỳ giống khác nhau, giống hạt to thường có hạt phấn to
và nhiều hơn so với giống có hạt nhỏ. Hạt phấn nảy mầm tốt trong điều kiện nhiệt
độ 18-23oC.
a b
Hình 2.1: Hình dạng hoa đậu nành: a) hoa màu tím, b) hoa màu trắng
4.5. Trái
Số trái biến động từ 2 đến 20 ở mỗi chùm hoa và có thể đạt tới 400 trái trên
một cây. Một trái chứa từ 1 tới 5 hạt, nhưng hầu hết các giống trái thường từ 2
đến 3 hạt. Trái đậu nành thẳng hoặc hơi cong, có chiều dài từ 2 tới 7 cm hoặc hơn.
Trái có màu sắc biến động từ vàng trắng tới vàng sẫm, nâu hoặc đen. Màu sắc trái
phụ thuộc vào sắc tố caroten, xanthophyll, màu sắc của lông, sự có mặt của các
sắc tố antocyanin. Lúc quả non có màu xanh nhiều lông (Hình 2.2a) (có khả năng
quang hợp do có diệp lục) khi chín có màu nâu (Hình 2.2b). Hoa đậu nành ra
nhiều nhưng tỷ lệ đậu trái thấp 20-30%.
Ví dụ trong vụ xuân 1 cây có thể có 120 hoa nhưng chỉ đậu 30-40 trái là cao,
trên một chùm 5-8 hoa chỉ đậu 2- 3 trái. Những đốt ở phía gốc thường trái ít hoặc
không có trái, từ đốt thứ 5-6 trở lên tỷ lệ đậu trái cao và trái chắc nhiều. Trên cành
thường từ đốt 2-3 trở lên mới có trái chắc, những trái trên đầu cành thường lép
nhiều. Sau khi hoa nở được 2 ngày thì cánh hoa héo và rụng, ngày thứ 3 đến ngày
thứ 5 sau hoa nở đã hình thành trái và 7-8 ngày sau là thấy nhân trái xuất hiện.
Trong 18 ngày đầu trái lớn rất nhanh sau đó chậm dần, vỏ dày lên và chuyển từ
màu xanh sang màu vàng. Hạt lớn nhanh trong vòng 30-35 ngày sau khi hình
thành quả.
34
- a
b
Hình 2.2: Hình dạng trái đậu nành. a) Trái đậu còn non, b) Trái đậu đã chín
4.6. Hạt
Hạt có nhiều hình dạng khác nhau: hình tròn (Hình 2.3), hình bầu dục, tròn
dẹt v.v... Giống có màu vàng giá trị thương phẩm cao. Trong hạt, phôi thường
chiếm 2%, 2 lá tử điệp chiếm 90% và vỏ hạt 8% tổng khối lượng hạt. Hạt to nhỏ
khác nhau tuỳ theo giống, khối lượng một nghìn hạt (M1000 hạt) thay đổi từ 20-
400g trung bình từ l00g-200g. Rốn hạt của các giống khác nhau thì có màu sắc và
hình dạng khác nhau, đây là một biểu hiện đặc trưng của các giống.
Hình 2.3: Hạt đậu nành
35
- 5. Nốt sần và sự cố định đạm
5.1. Sự hình thành nốt sần
Trong đất luôn luôn có nhiều loại vi sinh vật thường tập trung xung quanh
bộ rễ (để sử dụng các chất thải ra làm thức ăn), mặt khác xung quanh rễ do canh
tác tạo điều kiện đất đai thuận lợi cho vi sinh vật phát triển. Có loại cộng sinh, có
loại hoại sinh, ký sinh trong đó có loại có lợi, có loại có hại với rễ. Cây họ đậu
đều tiết ra các chất như gluxit, đường galacto v.v.. đã hấp dẫn các loại vi sinh vật
trong đó có vi sinh vật nốt sần. Có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình xâm
nhập của vi sinh vật nốt sần vào rễ cây họ đậu.
Có quan điểm cho rằng khi sống vi khuẩn Rhizobium japonicum tiết ra chất
axit andol 3 axêtic. Khi vi khuẩn tiếp xúc với lông hút dưới tác dụng của axit làm
cho điểm đó trên lông hút khô cong lên, tạo nên khe hở làm cho vi sinh vật đi sâu
vào lông hút.
Quan điểm khác lại cho rằng vi sinh vật tiết ra men xelluoza phân huỷ tế bào
lông hút để đi vào lông hút.Vi khuẩn tiết ra chất kích thích làm cho tế bào phân
chia không bình thường và hình thành nốt sần.
Nốt sần phát triển đến một giai đoạn nhất định thì cố định đạm. Bản thân nốt
sần hút N còn vi sinh vật như một chất xúc tác. Khi cây già vi sinh vật đi ra ngoài.
Quá trình hình thành nốt sần kéo dài 16-21 ngày. Trường hợp bình thường nốt sần
bắt đầu xuất hiện sau mọc 14-15 ngày, phát triển nhiều và mạnh nhất vào lúc đậu
nành ra hoa và làm trái tập trung nhiều nhất ở lớp rễ thứ nhất. Số lượng nốt sần
nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện đất trồng, các chất dinh dưỡng đối
với đậu nành. Trồng đậu nành trên đất đã trồng đậu nành, thì nốt sần hình thành
sớm hơn và nhiều hơn. Đất chua quá hoặc kiềm quá nốt sần hình thành kém. pH
thích hợp cho sự hình thành của nốt sần là 6-7, vì vậy việc lựa chọn đất trồng đậu
nành thích hợp rất quan trọng. Điều kiện dinh dưỡng cũng ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển của nốt sần. Nhìn chung bón đầy đủ NPK thì nốt sần phát triển mạnh,
bón P2O5 Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nốt sần, còn hiệu quả kali không
rõ lắm.
5.2. Quan hệ giữa vi khuẩn tạo nốt sần và giống đậu nành
Quan hệ giữa vi sinh vật nốt sần với cây đậu nành là mối quan hệ cộng sinh:
cây cung cấp chất dinh dưỡng cho vi khuẩn hoạt động, ngược lại vi khuẩn lại tổng
hợp nitơ tự do của không khí chuyển sang dạng đạm hữu cơ cây có thể sử dụng
được. Cây đậu nành cung cấp càng nhiều chất dinh dưỡng cho vi sinh vật hoạt
động thì vi sinh vật càng phát triển và tích luỹ đạm được càng nhiều cho cây làm
cho cây sinh trưởng và phát triển tốt.
36
- 5.3. Hiệu quả cố định và lợi ích của biện pháp nhiễm vi khuẩn
Ngày nay ở nhiều nước để tăng cường hiệu quả cố định đam của đậu nành
trong sản xuất đại trà, trên thị trường có bán các dạng chế phẩm R. japonicum với
tên gọi chung là nitrazin, để nhiễm cho hạt giống đậu nành lúc gieo. Hiện nay loại
phân này được Trung tâm đạm sinh học của Trường Đại học Cần Thơ sản xuất
với quy mô nhỏ với tên gọi là Viđana. Kinh nghiệm cho thấy khi nhiễm vi khuẩn
nốt sần, năng suất đậu nành tăng 4-6%.
5.4. Cách nhiễm vi khuẩn nốt sần cho hạt giống đậu nành (nhiễm khuẩn
Rhizobium)
Để giảm mức bón phân đạm, cây đậu nành phải có một quần thể Rhizobium
japonicum thích hợp để hình thành nốt sần. Ở những đất mới trồng đậu nành lần
đầu không có Rhizobium, để cho cây đậu nành có nhiều nốt sần cần nhiễm khuẩn
trước khi gieo. Các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy biện pháp
nhiễm khuẩn nốt sần thường đạt hiệu quả kinh tế cao trên đất mới trồng đậu nành
lần đầu.
Các chế phẩm Rhizobium để nhiễm cho hạt trước khi gieo thường có tên gọi
chung là Nitragin. Trộn phân vi sinh vật như nitragin hay các chế phẩm vi sinh
vật khác với lượng 2kg/ha với hạt giống trong nơi râm mát sau đó gieo ngay.
6. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
6.1. Đất
Cây đậu nành không yêu cầu nghiêm khắc về đất trồng, nói chung loại đất
nào trồng được các cây hoa màu nhất là ngô đều trồng được cây đậu nành. Loại
đất thích hợp nhất đối với cây đậu nành là loại đất có tầng canh tác sâu, giàu chất
hữu cơ, Ca, K và pH trung tính, mực nước ngầm sâu, giữ ẩm tốt, dễ thoát nước,
trong đó khả năng giữ nước và thoát nước có ảnh hưởng nhiều nhất đến khả năng
sinh trưởng, phát triển và năng suất cây đậu nành. Đậu nành chịu mặn và chịu
chua kém hơn nhiều cây trồng khác, độ pH có thể phát triển bình thường được là
từ 5,0-8,0, độ pH thích hợp nhất là 6,0-7,0. Dưới 4,0 và trên 9,5 đậu nành không
sống được. Ở nước ta đậu nành có thể trồng trên nhiều loại đất như đất phù sa
sông suối, đất đỏ bazan,…(Tây Nguyên và miền núi Đông Nam Bộ), đất lúa (thịt
nhẹ và trung bình), đất nương đồi bãi.
6.2. Nước
Trong cả vụ, nhu cầu nước đối với cây đậu nành dao động từ khoảng 350 tới
800 mm (Mayer và ctv., 1992). Nhưng nhu cầu nước phụ thuộc vào độ dài thời
gian sinh trưởng, tốc độ phát triển của cây trước khi phủ kín đất và lượng nước
sẵn có trong đất. Trong suốt thời gian sinh trưởng, nhu cầu nước của cây không
37
- đồng đều qua các giai đoạn. Ở giai đoạn nảy mầm và cây con, tỷ lệ sử dụng nước
thấp do tán cây còn nhỏ và phần lớn số nước mất đi do bay hơi trên mặt đất. Nhu
cầu nước của cây đậu nành tăng dần khi cây ở giai đoạn từ 3-5 lá kép, tăng nhanh
và cao nhất ở giai đoạn sinh trưởng sinh thực từ khi cây ra hoa đến khi trái vào
chắc. Giai đoạn trái bắt đầu chín, nhu cầu nước lại giảm đi cùng với sự tàn của lá
và lượng nước bay hơi giảm. Nước ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây bao gồm
về cả sinh lý, sinh hoá, hình thái và giải phẫu của cây dẫn đến làm giảm năng suất.
6.3. Ánh sáng
Cây đậu thích hợp với ánh sáng ngày ngắn, là cây ưa sáng nên trồng vào mùa
nắng. Cây đậu cần cường độ ánh sáng thấp hơn cây trồng khác (30% cường độ
ánh sáng bức xạ mặt trời) do đặc điểm này đậu nành có thể trồng xen với cây có
cường độ ánh sáng cao hơn như: bắp, mía,…
6.4. Nhiệt độ
Trong quá trình sinh trưởng của cây đậu nành, nếu nhiệt độ biến động trên
hoặc dưới mức thích hợp quá nhiều, có thể gây thiệt hại đối với cây trồng. Khả
năng thiệt hại do nhiệt độ tuỳ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây. Đậu nành
được trồng rải ở nhiều nước trên thế giới có thể trồng tới 47o vĩ bắc. Đậu nành có
nguyên sản ở Trung Quốc nên nói chung đậu nành là một loại cây ưa nhiệt độ ấm.
Cây đậu nành ưa nhiệt độ cao nhưng tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng khác nhau mà
yêu cầu nhiệt độ khác nhau.
7. Kỹ thuật canh tác
7.1. Thời vụ
Căn cứ vào điều kiện sau đây để xác định thời vụ:
Đất đai: tuỳ theo chân ruộng thấp hay cao thoát nước hay không, mà phải
gieo trồng đúng thời vụ, tránh lúc ra hoa và làm trái gặp mưa bị úng, rụng hoa,
rụng trái nhiều.
Căn cứ vào chế độ canh tác: tuỳ theo chế độ canh tác của từng nơi, luân canh
hoặc trồng xen gối mà bố trí thời vụ gieo trồng đảm bảo năng suất cây trồng trước
và cây trồng sau. Căn cứ vào giống: tuỳ theo giống chín sớm trung bình hay chín
muộn, để bố trí thời vụ gieo trồng thích hợp nhất. Ví dụ nếu trồng giống chín
muộn không được gieo muộn quá làm rút ngắn thời gian sinh trưởng, năng suất
giảm.
Căn cứ vào điều kiện khí hậu: đây là yếu tố chủ yếu nhất để bố trí thời vụ,
hay phải căn cứ vào điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng để gieo trồng đúng thời
vụ, tạo điều kiện cho đậu nành sinh trưởng thuận lợi nhất, biểu hiện khi gieo trồng
gặp hạn, không bị rét khi ra hoa và chín, có ẩm độ và nhiệt độ thích hợp, khi thu
38
- hoạch ẩm độ phải khô. Ở nước ta có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, nhưng ở
miền Nam có 2 thời vụ thích hợp trồng đậu nành:
- Vụ Đông xuân: gieo tháng 11-12 dl, thu hoạch tháng 2-3 dl năm sau. Thông
thường tỉa trên đất cồn bãi bồi, đất liếp, gò cao. Chủ yếu là nhân giống cho vụ
xuân hè.
- Vụ Xuân hè: gieo tháng 2-3 dl, thu hoạch tháng 5-6 dl. Đây là vụ sản xuất
chính, trồng thích hợp trên chân đất ruộng đã thu hoạch lúa Đông xuân, dọn sạch
cỏ tranh thủ xuống giống lúc đất còn ẩm, có thể tỉa hoặc sạ.
7.2. Giống
Giống giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Về
mặt kinh tế, việc chọn đúng các giống thích hợp có năng suất cao để đưa vào sản
xuất là biện pháp rẻ tiền nhất để nâng cao năng suất cây trồng. Riêng đối với đậu
nành là cây rất mẫn cảm với ngoại cảnh, thì việc xác định cho đúng giống để gieo
trồng trong điều kiện tự nhiên và canh tác, cần phải được quan tâm đúng mức hơn.
Dựa vào các tiêu chuẩn chọn giống, bộ môn Di truyền giống, khoa Nông
Nghiệp và Sinh học ứng dụng, trường Đại Học Cần Thơ đã tuyển chọn, lai tạo
được nhiều giống đậu nành năng suất cao như: MTĐ6, MTĐ10, MTĐ13, MTĐ22,
MTĐ65 và đặc biệt là giống MTĐ 176 là giống lai từ tổ hợp lai D9H4 x CES 97
- 13 tỏ ra thích nghi, ổn định nhiều năm trong khu vực sản xuất đậu nành ở các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Các giống mới đã được Viện nghiên cứu và thí nghiệm phù hợp với từng
vùng như:
+ Nhóm giống ngắn ngày, thời gian sinh trưởng 70 – 80 ngày gồm có: ĐT
12, ĐT 13, ĐVN 9, AK 02, AK 03, V 48, DT 99, ML 2, VN-9, DT 96, ĐVN 5,
ĐVN 8, OMDN 87,...
+ Nhóm giống trung ngày, thời gian sinh trưởng 85 - 90 ngày gồm có: HL
203, OMDN 1, OMDN 29, OMDN 87, OMDN 109, OMDN 110, OMDN 112,
OMDN 114,...
+ Nhóm giống dài ngày, thời gian sinh trưởng 95 – 110 ngày gồm có: T 57,
TN 01, ĐT 80, ĐT 95, ĐT 2000, ĐT 2003, DT 2601, DT 2008 (chịu hạn),....
7.3. Chuẩn bị đất
Có 2 mô hình canh tác cây đậu nành
- Mô hình chuyên canh màu: có làm đất.
- Mô hình luân canh: không làm đất.
39
- Cách trồng có làm đất
- Cày đất lúc có ẩm độ vừa phải. Tránh cày đất lúc còn quá ướt.
- Trường hợp đất quá khô, phải chủ động tưới nước và chờ đến khi đất có đủ
độ ẩm thích hợp thì mới cày.
- Tránh làm đất quá tơi, khi gặp mưa, dễ bị đóng váng, cản trở việc hút nước,
dinh dưỡng của cây, cây sinh trưởng yếu, các nốt sần ít và nhỏ. Đường kính đất
cày vừa phải: 4 – 5cm.
* Ưu điểm
- Diệt cỏ dại.
- Nâng cao độ tơi xốp của tầng đất mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống
rễ phát triển mạnh trong giai đoạn đầu.
- Hạn chế việc bốc phèn (xì phèn) lên lớp đất mặt do mao dẫn.
* Nhược điểm
- Tốn thời gian làm đất, do đó kéo dài thời vụ trồng đậu nành. Có thể ảnh
hưởng đến cây trồng vụ sau.
- Tốn chi phí làm đất, tưới nước (vì muốn làm đất, phải để đất khô, sau khi
gieo, phải tưới nhiều nước) dẫn đến lợi nhuận bị giảm một phần .
Do đó, việc áp dụng làm đất chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp đất
quá khô, nhiều cỏ dại.
Cách trồng không làm đất
Cách trồng này đã có từ thời xa xưa. Ở An Giang, đã áp dụng từ lâu với mô
hình lúa mùa nổi luân canh màu. Trên chân đất ruộng, tiến hành gieo đậu nành
sau khi thu hoạch lúa, khi đất còn độ ẩm thích hợp. Có thể kết hợp phủ rơm để
giữ ẩm. Trường hợp đất quá khô, có thể tưới tràn, sau đó tháo nước ra, ngày hôm
sau tỉa hạt.
* Ưu điểm
- Tranh thủ thời vụ , vì không phải chờ đợi thời gian làm đất .
- Giảm được chi phí trong khâu làm đất. Do đó hiệu quả kinh tế hơn .
- Tận dụng được độ ẩm trong đất sau khi thu hoạch lúa, do đó giảm chi phí
tưới nước.
* Nhược điểm
- Sâu bệnh phát triển nhiều hơn.
40
- - Gặp trở ngại trong việc ứng dụng phân bón, nhất là các loại phân đòi hỏi
phải trộn hoặc lấp xuống đất như phân lân, phân hữu cơ, vôi, ....
Ngoài ra, một số nơi còn áp dụng biện pháp làm đất theo hàng, qua các thí
nghiệm của Trường Đại học Cần Thơ, cho thấy, không có sự khác biệt về năng
suất đối với 2 biện pháp kỹ thuật làm đất trên. Tuy nhiên, biện pháp không làm
đất cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
7.4. Gieo sạ
Chọn hạt giống có tỉ lệ nảy mầm trên 70% (TCVN: 1976-2004). Trước khi
gieo, phơi lại hạt giống một nắng nhẹ trên nong, nia, không được phơi trên nền xi
măng, sân gạch khi nắng gắt.
- Tỉa: tranh thủ đất còn ẩm hoặc bơm nước cho ngập đều và tháo nước ra chờ
ráo và tiến hành tỉa. Xôm lỗ sâu 2-3 cm, bỏ 2-3 hạt/lỗ, lấp lỗ bằng tro trấu ẩm.
- Sạ: đốt bớt gốc rạ, vệ sinh đồng ruộng, xuống giống lúc đất còn ẩm hoặc
sau khi xuống giống bơm lùa nước (tưới tràn), đánh rãnh thoát nước và thoát nước
ngay cho thật ráo để giúp hạt nảy mầm tốt.
7.5. Bón phân
Cùng thuộc nhóm cây họ đậu, đậu nành còn có khả năng cố định đạm từ khí
trời. Khả năng này nhờ vi khuẩn Rhizobium japonicum, gọi là vi khuẩn cố định
đạm. Vi khuẩn này sống trong điều kiện đất không bị ngập và đất phải thoáng khí,
giúp tạo nốt sần trong rễ cây họ đậu. Nhờ hút chất đạm từ không khí, khi nốt sần
trưởng thành (lúc cắt ngang có màu nâu đỏ) nó sẽ cung cấp chất đạm lại cho cây
trồng sử dụng. Do đó, việc bón quá nhiều lượng phân đạm cho cây đậu nành là
không cần thiết.
Đối với cây đậu nành, do có thể cố định được lượng đạm khí trời (vi khuẩn
Rhizobium japonicum) để nuôi cây, vì vậy cần chú ý đến việc bón thêm phân lân
và kali để cân đối NPK. Phân đạm nên bón vào đầu của giai đoạn tăng trưởng, để
kích thích bộ lá phát triển trước khi vi khuẩn nốt sần ở rễ lấy được đạm từ khí
quyển để nuôi cây.
Bảng 2.3: Nhu cầu dinh dưỡng của cây đậu nành.
Cứ 1 tấn hạt, cây đậu nành đã lấy đi lượng dinh dưỡng từ đất
(Đơn vị tính: kg/ha)
N P2O5 K2O MgO CaO
100 kg/ha 16 kg/ha 21 kg/ha 4 kg/ha 4 kg/ha
41
- Qua số liệu trình bày trong Bảng 2.3 nhận thấy rằng cây đậu nành rất cần
đạm, song do có vi khuẩn cố định đạm, nên lượng đạm bón vào không cần nhiều.
Cây đậu nành có nhu cầu về lân, kali, canxi, magiê. Do đó, bón tập trung vào giai
đoạn đầu của thời kỳ sinh trưởng.
- Lượng phân bón: tùy theo từng loại đất, loại giống, mùa vụ,… mà có lượng
phân bón cho thích hợp.
Theo khuyến cáo của Trung tâm khuyến nông – khuyến ngư tỉnh Đồng Tháp
(2013), lượng phân sử dụng cho 1ha như sau:
Lần 1 (7 - 10 ngày sau khi gieo): bón 100 kg DAP + 25 kg Kali
Lần 2 (22 - 25 ngày sau khi gieo): bón 50 kg DAP + 25 kg Kali
Lần 3 (35 - 40 ngày sau khi gieo): bổ sung phân bón lá có hàm lượng Kali
cao
Nếu có điều kiện, bón thêm 5-6 tấn phân chuồng/ha, bón vào giai đoạn trước
khi tỉa hạt (bón lót).
Canh tác trên đất phèn, tùy vào độ chua của từng loại đất, có thể bón thêm
30-50 kg vôi bột cho 1.000 m2 vào giai đoạn bón lót.
- Cách bón lót: vùi phân vào đất hoặc trộn với tro trấu, phân hữu cơ, thuốc
ngừa sâu bệnh. Sau đó lấp hạt lại. Đối với các lần bón thúc, có thể pha nước tưới
hoặc bón cách hàng đậu 5 cm, độ sâu 10 cm.
7.6. Tưới nước và quản lý cỏ dại
a. Tưới nước
Tùy vào điều kiện trồng mà có biện pháp tưới nước cho thích hợp và giữ đất
luôn ẩm tránh nứt nẻ khô hạn. Trường hợp trồng ở đất ruộng phương pháp tưới
tràn có hiệu quả kinh tế hơn, cho nước ngập đều ruộng 3-4 cm sau đó rút nước
thật ráo.
Chú ý: Với phương pháp tưới tràn yêu cầu mặt ruộng tương đối bằng phẳng và
có rãnh thoát nước tốt.
b. Quản lý cỏ dại
Cỏ dại thường gây những tổn thất rất lớn trong sản xuất, cùng mọc trên một
thửa ruộng cỏ dại cạnh tranh với cây cả về dưỡng chất, nước, ánh sáng và các điều
kiện sống khác, làm cho năng suất và phẩm chất đậu nành bị giảm. Mặc khác, cỏ
dại còn là nơi lưu tồn của các mầm sâu bệnh hại, khả năng cạnh tranh, lưu tồn của
nhiều loài cỏ dại cao hơn đậu nành. Số lần làm cỏ và thời điểm làm cỏ tùy theo
mức phát triển cụ thể của cỏ dại trên ruộng. Mức phát triển của cỏ dại tùy thuộc
42
- vào khâu chuẩn bị đất trước lúc gieo, mức độ nhiễm cỏ dại của ruộng, thành phần
cỏ dại và hiệu quả của đợt làm cỏ trước. Sử dụng thuốc tiền nảy mầm: Dual
720ND, Ronstar 25EC (sau khi tỉa 1 ngày). Hoặc có thể sử dụng thuốc hậu nảy
mầm: Onecide 35EC, Targa Supper (10-12 ngày sau khi gieo). Có thể làm cỏ bằng
tay khi đậu chưa giáp tán.
8. Côn trùng gây hại và biện pháp quản lý
8.1. Dòi đục thân
Cây đậu nành ở giai đoạn 10-15 ngày sau khi gieo thường bị chết héo do dòi
đục thân. Tách đôi thân cây chết thấy dòi tấn công trong thân, ăn thành đường
hầm ngay giữa thân kéo dài từ gốc lên đến ngọn (Hình 2.3). Có thể dùng thuốc
hạt như Basudin 10H rải cùng lúc gieo hạt tại mỗi lỗ (2 kg thuốc/1000m2) sẽ bảo
vệ được cây đậu ngay từ lúc có 2 lá đơn đầu tiên. Cũng có thể rải thuốc khi cây
đậu đã ra lá kép nếu thấy còn nhiều ruồi xuất hiện trên lá.
Hình 2.3: Dòi đục thân gây hại
43
- 8.2. Sâu đục trái
Thành trùng của sâu đục trái đẻ trứng trên trái vừa mới hình thành, trứng
thường được đẻ rải rác trên trái và một phần trên lá, cuống lá và cuống trái. Trên
trái, bướm đẻ trứng tập trung ở hai đầu trái là nơi có lông thì số trứng lại rất thấp.
Khi nở ấu trùng giăng tơ cột các lông trên trái và bắt đầu đục vào trái. Thường
một ngày sau khi nở, ấu trùng đã đục vào trái (Hình 2.4). Giai đoạn này thường
khó phát hiện thấy ở ngoài đồng vì sâu chui vào trong hạt ở luôn trong đó, ăn phá
hết hạt sau đó mới đục lỗ chui ra.
Nên luân canh cây đậu nành với lúa hoặc các loại cây khác để cắt đứt nguồn
thức ăn của sâu. Có thể sử dụng các loại thuốc như: Reasgant 3.6EC, Tungmectin
1.9EC, Kuraba 1.8EC (Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, 2006) khi thấy
bướm sâu đục trái xuất hiện nhiều ở giai đoạn hoa nở.
Hình 2.4 Sâu đục trái gây hại trên đậu nành
44
nguon tai.lieu . vn