Xem mẫu
- Ngô Thì Nhậm
G.S Vũ Khiêu
Đã 200 năm, từ ngày Ngô Thì Nhậm qua đời sau trận đòn thù tại sân Văn Miếu
(1803). Sau hành động tàn nhẫn và bỉ ổi lấy, vua quan nhà Nguyễn tiếp tục lên án ông
về tội "bất trung, bất hiếu".
Qua những trang sách cũ, đọc lại thơ ông, chúng ta thấy nổi lên những nét rất
đậm đà và rực rỡ về toàn bộ cuộc đời ông. Ta càng hiểu thêm những khát vọng lớn
lao, những suy nghĩ thầm kín, những tâm sự đau thương phản ánh con người ông từ
chiều sâu của tâm hồn. Thơ văn ấy là một bức tranh tuyệt đẹp vẽ lại cuộc đời ông,
người đã đem hết trí lực và tài năng chiến đấu cho lợi ích của nhân dân, cho đạo lý
của cuộc sống, cho vinh dự của Tổ quốc, cho phẩm giá của con người.
Ngô Thì Nhậm sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746 tại làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội). Cha ông là Ngô Thì Sĩ, đậu tiến sĩ
làm quan thời Lê Trịnh đồng thời là nhà sử học và nhà thơ. Các em ông đều học giỏi
đỗ cao: Em rể ông là Phan Huy Ích, một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn. Người đương
thời thường khen ngợi gia đình ông: "Họ Ngô một bồ tiến sĩ". Không những gia đình
đã từng đời đời đỗ đại khoa và nhận tước lộc cao của triều đình mà còn nổi tiếng về
văn học được mọi người tôn vinh với danh hiệu Ngô gia văn phái.
Ngô Thì Nhậm 16 tuổi đã soạn quyển Nhị thập thất sử toát yếu. Năm 1765, ông
đậu kỳ thi Hương, tiếp đến năm 1976, ông đỗ khoa sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát
phó sứ Hải Dương. Công việc trước tác và sáng tác của ông thực sự bắt đầu từ giai
đoạn này. Năm 1771, Ngô Thì Nhậm hoàn thành quyển Hải Đông chí lược, nghiên
cứu mọi mặt về lịch sử và đời sống của vùng Hải Dương. Năm 1775, Ngô Thì Nhậm
đi thi Hội, đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ đệ tam giáp, được bổ Cấp sự trung Bộ Hộ. Năm
1776, được thăng Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, rồi thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc,
năm sau lại kiêm luôn Đốc đồng Thái Nguyên. Năm 1779 Ngô Thì Nhậm chuyển
sang làm Hiệu thư ở tòa Đông Các.
Làm án sát Hải Dương rồi làm đốc đồng hai trấn Bắc Ninh và Thái Nguyên, ông
đã tỏ ra là một thanh niên lỗi lạc, văn võ kiêm toàn. Ngô Thì Sĩ đã từng viết về con:
"Con ta lấy tài năng gặp được tao ngộ dị thường, lấy tâm cơ đáp ứng với ủy nhiệm
khó khăn, lấy trung thành làm liều thuốc để gạt bỏ gian hiểm và làm tiêu tan khí lam
chướng. Tướng sĩ trong một đạo đều tuân theo hiệu lệnh. Kẻ địch ngoài bờ cõi không
lường biết được mưu cơ. Muôn khe, nghìn dặm không đâu cho là xa. Quân đội muôn
bếp thống nhất như một người. Bậc đại trượng phu văn, võ cùng đi đôi bằng phẳng và
hiểm trở coi là một: thật là xứng đáng!". (Trích thư Ngô Thì Sĩ gửi cho con là Ngô
Thì Nhậm).
- Sĩ phu đương thời chê trách Ngô Thì Nhậm đã ít nghĩ đến vua Lê mà chỉ hết
lòng với chúa Trịnh, sau lại bỏ cả Lê, Trịnh mà theo Tây Sơn như thế là bất trung.
Người ta lên án ông đã đứng về phía Đặng Thị Huệ và "giết bốn bố" để làm chức thị
lang, như thế là bất hiếu. Người ta phủ nhận những cống hiến vĩ đại của Ngô THì
Nhậm đối với tổ quốc, với nhân dân; coi đó chỉ những hành động xu thời.
Trước tất cả những lời đả kích ấy, Ngô Thì Nhậm đã kiên quyết đi con đường
của mình. "Ta hãy yên tĩnh lòng ta, giữ điều ẩn ước của ta. Khi việc làm của ta thuận
với mệnh trời, thì đem cả thiên hạ bắc lên cân, cũng không cho là lớn.
Ta hãy giữ gìn thân ta, đi con đường rộng lớn của ta. Khi bước đi của ta thấy
hợp với "lý", thì dù có dẵm lên đuôi hổ cũng không sao cả!".
(Vị chi phú).
Ngay từ khi đỗ tiến sĩ, Ngô Thì Nhậm đã được chúa Trịnh tin dùng. Là một
thanh niên học rộng tài cao, ông luôn luôn nghĩ tới những việc lớn của quốc gia, làm
thế nào để dân được ấm no, nước được giàu mạnh? Với tinh thần ấy, ông đã sống
khác các sĩ phu đương thời, luôn luôn băn khăn trước tình trạng kiệt quệ về kinh tế,
rối ren về chính trị, tan rã về tinh thần của thời Lê-Trịnh. Ông điều tra rất cụ thể tình
hình các địa phương, luôn luôn gửi những lời kiến nghị lên chúa Trịnh, dù việc ấy có
thể làm phật ý chúa. Ông xác định "làm người bề tôi thờ một ông vua, biết có thể làm
được mà không làm, thế là bất trung. Đứng ở một triều có thể nói được, mà im lặng
không nói thế là bất thành". Vì lòng trung thành với chúa Trịnh và trước hết là lòng
trung thành với tổ quốc và với nhân dân, mà Ngô Thì Nhậm dám nói thẳng với chúa
Trịnh về những sai lầm trong chính sách của triều đình.
Nhưng tất cả những kiến nghị của Ngô Thì Nhậm đều không được Trịnh Sâm
chấp nhận. Trịnh Sâm lúc mới lên ngôi chúa đã làm được một số việc xuất sắc nhưng
khi "bốn phương đã yên lặng, kho đụn lại sung túc, Sâm dần dần sinh ra xa xỉ, kiêu
căng, cung tần thị nữ kén vào rất nhiều, ngày đêm mặc ý mua vui, không còn e lệ gì
nữa" (Hoàng Lê nhất thống chí). Từ đó Triều đình ngày một mục nát, nhân dân ngày
một đói khổ, các quan chức trong triều thì chia thành phe phái giữa những người ủng
hộ Trịnh Tông và những người theo Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán. Các sĩ phu đương
thời chê trách Ngô Thì Nhậm đã đứng về phe Đặng Thị Huệ mà tố cáo âm mưu của
bè lũ Trịnh Tông.
Lúc đó Trịnh Sâm đã ốm đau không còn sống được bao lâu nữa, Trịnh Tông
(con lớn của Sâm) là đứa ngu xuẩn, tàn ác, bất tài, bất lực đã bị chính cha nó ghét bỏ.
Nhân cách của nó, Ngô Thì Nhậm không thể không biết. Con nhỏ của Sâm là Trịnh
Cán (con của Đặng Thị Huệ) lại tỏ ra thông minh khác thường và được Trịnh Sâm đặc
biệt yêu quý nên lập làm thế tử. Trong trường hợp ấy nếu Ngô Thì Nhậm đứng về
phía Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán, thì theo lễ giáo cũ ông vẫn là người tận trung với
Trịnh Sâm. Đứng về lẽ phải, đó là một việc làm thức thời, vì ông biết đất nước không
- thể trông mong gì được ở Trịnh Tông, tên bạo chúa sau này, còn đối với Trịnh Cán,
ông rất có thể đem tài năng của Y Doãn và Vũ Hầu ra giúp ấu chúa.
Năm 1782, Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi
chúa. Thấy tình hình Thăng Long phức tạp, Ngô Thì Nhậm bỏ về sống ở quê vợ, vùng
Sơn Nam trong vòng sáu năm. Ông đã hoàn thành tác phẩm khảo cứu Xuân Thu quản
kiến và tập thơ Thủy vân nhàn vịnh trong thời gian này.
Năm 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đổ nhà Trịnh rồi trả lại đất nước cho vua
Lê.
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai và trong một thời gian rất ngắn vị anh hùng này
đã bộc lộ tài năng và khí phách trong việc phù Lê diệt Trịnh, rất xứng đáng là người
ông vẫn mong mỏi và chờ đợi. Ông quyết tâm tìm đến tới Nguyễn Huệ và tin tưởng
rằng việc làm của mình là đúng. Khác hẳn với các sĩ phu đương thời, ông dứt bỏ
những ràng buộc về giai cấp và nhận thức, đi hẳn với phong trào Tây Sơn và trung
thành tuyệt đối với người anh hùng áo vải.
Cuộc gặp gỡ giữa Quang Trung và Ngô Thì Nhậm là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu
giữa người trí thức lỗi lạc với người anh hùng kiệt xuất. Có thể nói Ngô Thì Nhậm là
người duy nhất đã hiểu rõ Quang Trung, và Quang Trung cũng là người duy nhất đã
hiểu hết được tài năng và phẩm chất của Ngô Thì Nhậm. Quang Trung tuyên bố "Ngô
Thì Nhậm vừa là bầy tôi, và là khác" coi ông như là người đáng tin cậy nhất và giao
ngay những công việc rất quan trọng. Ngay từ buổi đầu, Quang Trung đã phong Ngô
Thì Nhậm là Tả thị lang Bộ lại, nghĩa là phụ trách toàn bộ công việc tổ chức và cán
bộ trong nội bộ của mình. Ngay buổi đầu đó, Ngô Thì Nhậm đã lập tức gọi em rể là
Phan Huy Ích viết thư cho bạn là Trần Bá Lãm, giới thiệu một loại trí thức có tài, có
đức về với Quang Trung.
Cuộc rút quân về Tam Điệp là một sách lược kiệt xuất nói lên trình độ mưu trí
và cực kỳ sáng tạo của Ngô Thì Nhậm. Lúc đó các tướng võ như Ngô Văn Sở, Phan
Văn Lân chỉ có biết đánh, còn Nguyễn Văn Dụng thì chỉ muốn lặp lại kinh nghiệm
của Lê Lợi ngày xưa là mai phục. Ngô Thì Nhậm đã bác bỏ cả hai ý kiến đó, so sánh
lực lượng của hai bên, vạch ra sự khác nhau cơ bản của hoàn cảnh lúc bấy giờ và hoàn
cảnh của thời Lê Lợi khi xưa, nêu lên ý nghĩa của "toàn quân rút lui không bị mất một
mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi" (Hoàng Lê Nhất Thống chí). Sách
lược rút lui này hoàn toàn phù hợp với ý của Quang Trung và đã tạo điều kiện hết sức
quan trọng để Quang Trung đánh bại quân Thanh.
Sau khi đất nước được giải phóng. Quang Trung rút về Phú Xuân để Ngô Thì
Nhậm ở ngoài Bắc và giao cho toàn quyền đảm đương công việc ngoại giao với nhà
Thanh. Ngô Thì Nhậm lại phát huy óc sáng tạo của mình. Trong việc tiếp xúc với vua
quan nhà Thanh cũng như trong việc giao dịch bằng thư từ, Ngô Thì Nhậm vừa cương
quyết, vừa linh hoạt, vừa nêu cao chủ quyền dân tộc, vừa giữ tình hòa hiếu giữa hai
- nước. Với tài ngoại giao, Ngô Thì Nhậm đã góp phần ngăn chặn được cuộc tấn công
trả thù của nhà Thanh, miễn được lễ cống người, vàng, đòi nốt những tỉnh ở vùng Tây
Bắc, yêu cầu phong vương cho Quang Trung, củng cố lòng quý trọng của vua nhà
Thanh đối với Quang Trung. Ngô Thì Nhậm đã thực hiện rực rỡ nhiệm vụ của Quang
Trung giao phó đúng với tinh thần:
"Chiến hòa do ta định đoạt
Thân thiện để người cùng vui"
Ngô Thì Nhậm chỉ cộng tác với Quang Trung có năm năm. Vị anh hùng kiệt
xuất của dân tộc đã từ trần quá sớm. Đó là sự tổn thất không gì bù đắp được của nhân
dân ta thời kỳ bấy giờ. Đó cũng là nỗi đau xót nhất của Ngô Thì Nhậm.
Vua mới còn ít tuổi, công việc quốc gia bị Bùi Đắc Tuyên, cậu ruột của vua
nắm hết. Triều đình Tây Sơn ngày một suy vong, Ngô Thì Nhậm mặc dầu tuổi già,
sức yếu vẫn cố gắng phục vụ triều Tây Sơn, vừa lo lắng cho vận mệnh của đất nước.
Không có cách gì để thuyết phục vua Quang Toản nghe theo mình, ông đã rất đau
buồn lo âu.
Thời kỳ này, Ngô Thì Nhậm đã viết cuốn sách lý luận về Phật giáo nhan đề
Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thanh. Trong tập này, Ngô Thì Nhậm đã phát huy cao hơn
nữa tư tưởng của cha mình. Ngô Thì Sĩ, cha ông ngày xưa cũng đã từng muốn thống
nhất cả Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo vào một nguồn gốc (tam giáo nhất
nguyên). Hòa hợp đạo Phạt và đạo Nho. Ngô Thì Nhậm đã trình bày những kiến thức
rất uyên bác với những lý lẽ rất chặt chẽ của mình. Ông dã để lại một di sản văn
chương đồ sộ gồm trên 600 bài thơ và 15 tác phẩm lớn.
Điều đáng quý ở Ngô Thị Nhậm là trong giai đoạn suy vong của triều Tây Sơn,
ông vẫn giữ nguyên vẹn một tấm lòng thủy chung son sắt, luôn luôn tìm mọi cách
củng cố triều đại, phục vụ tổ quốc và nhân dân.
Trong tình hình phức tạp và suy thoái này của nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh sau
khi chiếm lại miền Nam, đã kéo quân ra Bắc, tiêu diệt triều đại Tây Sơn và chấm dứt
cuộc đời của Ngô Thì Nhậm bằng một trận đò thù ở sân Văn Miếu.
Trong suốt cuộc đời mình, Ngô Thì Nhậm đã chứng kiến không biết bao nhiêu
sự thay đổi từ Nam chí Bắc. Hàng chục vua, chúa được đựng lên rồi bị đánh đổ. Cuộc
đấu tranh giành giật quyền vị đất đai, diễn ra liên tiếp trong hàng ngũ phong kiến.
Phong trào nông dân mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã tràn ngập khắp
nơi như vũ bão. Sự vùng dậy của dân tộc đã đánh tan 20 vạn quân xâm lược. Tất cả
những sự kiện to lớn ấy đã thu gọn trong cuộc đời 57 năm của Ngô Thì Nhậm.
- Thời thế luôn thay đổi nhưng bản chất con người tri thức chân chính ấy không
thể thay đổi. Dù ở với Lê, Trịnh hay với Tây Sơn, dù trong lúc giữ những trọng tách
lớn của lịch sử hay lúc sa cơ trước mặt quân thù, Ngô Thì Nhậm đã giữ nguyên vẹn
những phẩm chất cao quý của mình. Đó là lòng yêu nước, yêu dân, là đầu óc suy nghĩ
sáng tạo, là sự đấu tranh đến cùng cho chính nghĩa. Cho nên thời thế dù Xuân thu hay
Chiến quốc, dù hưng thịnh hay suy vong, trong thành công hay thất bại, Ngô Thì
Nhậm đã sống như thế và chỉ có thể sống như thế.
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 12/2003)
Phù Đổng Thiên Vương
Di tích & huyền thoại
Trần Thị Vân Anh
Trưởng phòng VHTT
TDTT huyện Gia Lâm
Bạn có thể thăm viếng tượng đài "Thánh Gióng" ở đâu đó, nhưng xin chớ quên
nơi chôn nhau cắt rốn của Người. Gióng - Phù Đổng tên của người anh hùng cũng
chính là tên của một địa danh có thật.
Phù Đổng, đó là một vùng đất nằm kề bên bờ tả ngạn sông Đuống, trước đây
thuộc phủ Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm
Hồ Gươm hơn 10 km theo đường chim bay.
Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước
chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước
ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho
ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.
Sau "Bảy nong cơm, ba nong cà. Uống một hơi nước cạn đà khúc sông". Gióng
vươn vai cao lớn khác thường, mặcgiáp sắt, cầm roi sắt, lên ngựa sắt. Ngựa sắt phun
lửa xông vào quân giặc. Trận chiến đấu ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng nhổ cả bụi tre đằng
ngà đánh giặc. Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn bái vọng Mẹ rồi bay về
trời.
Theo tục truyền, cứ đến ngày 9/4 âm lịch hàng năm, dân làng lại tổ chức lễ hội
Gióng, một sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Qua các diễn xuất trong hội lễ, người
ta có thể liên tưởng những bài học về chiến tranh nhân dân, suy ngẫm cách nhìn kẻ
thù, hiểu thêm về thẩm mỹ truyền thống, cũng như đạo lý ứng xử con người trong
tiến trình lịch sử...
Có rất nhiều người viết về Phù Đổng Thiên Vương, về cả thần tích, di tích và lễ
hội. Song, rõ ràng rằng từ xưa đến nay chưa có một ai để tâm giải mã những hiện
tượng văn hóa liên quan đến Đức Thánh Phù Đổng. Chúng ta hiểu rằng Đức Thánh
Phù Đổng Thiên Vương là một trong "Tứ bất tử". Trong "Tứ bất tử" này của người
Việt thì rõ ràng chỉ chấp nhận Đức Thánh Phù Đổng và Tản Viên Sơn thánh là tư
- cách của anh hùng văn hóa đích thực còn Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh chỉ là
những vị thần về sau mang yếu tố của các thần linh không phải dạng anh hùng văn
hóa vì Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là những vị thần đã được quan tâm tới và đề
cao ở thời kỳ sử đã thành văn. Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương và Tản viên sơn
thánh là những người được nảy sinh từ thời cổ đại, tiền sử.
Ở đây chúng ta hiểu rằng trong quá trình phát triển của cư dân Việt, các vị anh
hùng văn hóa thường được gắn với các sự kiện rất lớn của người Việt. Nếu như chúng
ta biết rằng Đức thánh Tản Viên ở tận vùng núi cao xa, Ngài là bạn thân của Thủy
Tinh nhưng ở đấy "Sơn thủy hữu tình". Đến khi người Việt lùi xuống phía dưới, biết
đắp đê ngăn lụt thì lúc đó Tản Viên mới trở thành có tính chất là kẻ thù đối với Thủy
Tinh mà biểu hiện bằng sự kiện lấy con gái vua Hùng. Đó là một hiện tượng sử hóa
các anh hùng văn hóa. Nhưng khi đã xuống đến châu thổ cao giáp với châu thổ thấp
thì người Việt lúc đó chủ yếu sử dụng công cụ bằng đồ đồng, đồ đá. Nhưng vì công
cụ này không có cách nào mà khai phá được những châu thổ thấp và đến lúc này
người ta phát hiện ra đồ sắt và chỉ có đồ sắt mới có khả năng chặt được những cây lớn
và khai phá những rừng rậm ở châu thổ thấp, đầm lầy mà thôi. Chính do phát hiện ra
đồ sắt và thấy sức mạnh của sắt vô cùng to lớn như thế nên sức mạnh này được hội tụ
và nhân cách hóa để trở thành một vị thần vĩ đại. Vị thần vĩ đại ấy đã góp phần tạo
nên sức mạnh, đại diện cho sức mạnh của dân tộc khai phá châu thổ thấp. Và, người
Việt chỉ có thể trở thành một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ
Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, để ra đi
tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay. Như vậy chúng
ta hiểu rằng Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương đã đánh dấu một bước phát triển đặc
biệt của dân tộc chúng ta ở thời kỳ sơ cử, tiền sử. Và, chỉ có từ Ngài mà chúng ta mới
phát triển lên được, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Ở đây với công cụ đồ sắt được
quy tụ vào cái gậy của Ngài, khi Ngài cầm gậy đi đánh giặc. Đó là một cuộc trường
chinh về sản xuất, một cuộc trường chinh với sức mạnh của đồ sắt buổi đầu khai phá
châu thổ Bắc Bộ. Đây là một vị trí tiếp giáp giữa châu thổ cao với châu thổ thấp để
nói lên bước phát triển của dân tộc...
Ở đây chúng ta còn thấy một đặc điểm khác nữa là trong lễ hội có rất nhiều tục
lệ đi theo nhưng đáng quan tâm là ở chỗ con ngựa trắng và ông hiệu cờ là quan trọng
nhất. Khi chúng ta thấy có 28 thiếu nữ tượng trưng cho tướng giặc, thực chất tượng
trưng cho tinh tú. Mà sử dụng những cô bé còn ngây thơ là biểu hiện hồn nhiên như
bầu trời. Người Việt lấy thờ Mẫu làm trọng thì sự ngây thơ ấy cũng xuất phát từ nữ
giới. Đó là một ý kiến. Song, ý kiến này đáng được tin theo, ý kiến khác là người ta đi
rước vào giữa trưa và rước ngựa trắng đi và chỉ ngựa trắng thôi. Ngựa trắng là "Bạch
Mã" tượng trưng cho sức mạnh linh khí của trời và tượng trưng cho phương Đông,
cho mặt trời, cho nên khi rước, người ta cầu cho có được sinh khí tràn về cho trần
gian, cho muôn loài sinh sôi. Và, trong tục lệ của người dân ở đây, nhiều người tin
rằng khi rước ngựa trắng ra thì trời bao giờ cũng nổi gió. Có nghĩa là trời ứng vận vào
người "Thiên nhân hợp khí" mà tạo cho khí thiêng của trời tràn về trần gian. Và, khi
rước về thì sinh khí đó nó hội tụ vào lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ là của ông hiệu cờ. Màu đỏ là
màu của sinh khí, màu của sức sống. Màu đỏ gắn với thần linh. Cái màu ấy có tràn về
thì muôn loài mới phát sinh phát triển được. Cho nên vai trò của ông hiệu cờ là rất
quan trọng. Múa cờ đỏ là nói lên cái vận động sinh khí của bầu trời. Trong vận động
sinh khí ấy, ông hiệu cờ đạp lên ba cái bát - tượng trưng cho "Tam sơn". Thông qua
"Tam sơn" mà sinh khí tràn xuống đất và nước. Chỉ có thể thì sức sống mới được phát
triển và cái ước vọng qua ngày hội mới trở thành ước vọng được mùa, ước vọng của
phồn thực, ước vọng của sự no đủ. Và, chính qua nhận thức của người xưa đối với
Phù Đổng Thiên Vương - một uy lực siêu phàm như vậy thì người xưa đã quan tâm
- đến nơi thờ của Ngài.
Nơi thờ là đền Phù Đổng Thiên Vương. Ngôi đền này còn để lại rất nhiều dấu
ấn mà chúng ta cần phải trân trọng. Khi nghệ thuật của người Việt trở lại với dân gian
tức là vào thế kỷ XVI, những viên gạch rồng và hoa thể hiện rất rõ rệt ở đền Phù
Đổng.
Chúng ta hãy điểm qua những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền
thuyết Thánh Gióng.
Đền Thượng: Đền thờ Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời
Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý
Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Đền sát đê, được bố cục theo
hình chữ "Công", quy mô rộng rãi.
Trước sân, ngay sát chân đê có ao rộng, có tên ao Rối, nơi hàng năm có tổ chức
múa rối nước vào ngày hội. Trong ao, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá sum suê là
ngôi thủy đình xinh xắn. Thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời Lê
Trung Hưng (thế kỷ XVII) với nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, mà đề tài là những
cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng... Thủy đình mang
nhiều yếu tố dịch học mà trên đó những mảng chạm nói lên những ước vọng của dân
chúng.
Đó là hai hình ảnh nói lên người quân tử lấy cái trí thức làm đầu, nếu không có
trí thì con người đi vào ngu tối mà sự vô minh, ngu tối thì đồng nghĩa đồng thời là
mầm mống của tội ác. Thông qua đó thấy rằng, người xưa dạy phải lấy cái trí tuệ làm
đầu, nhờ có trí tuệ mà đi vào thiện tâm.
Qua sân gạch đến Nghi môn khá cao mới được xây vào cuối thế kỷ XIX. Phía
trước có đôi rồng đá nét chạm hơi thô nhưng rất khỏe, bên dưới có dòng chữ khắc cho
biết niên đại tạo tác của rồng vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, tức năm 1705
dưới triều Vua Lê Dụ Tông. Phía sau có đôi sư tử đá cũng làm vào năm đó.
Tiếp đến là nhà Thiêu hương (đốt hương), cấu tạo giống Thủy đình nhưng nhỏ
hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn (20cm x 30cm).
Liền nhà Thiêu hương là hai nhà Tiền tế khá rộng. Nhà ngoài do Điền Quận
công Nguyễn Huy (1610-1675), người làng Phù Dực, cạnh xã Phù Đổng đứng ra xây
dựng. Nhà bên trong do Đặng Công Chất, người chính làng Phù Đổng, đỗ Trạng
nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, đáng chú ý ở đây là 39 viên gạch với kích tấc
30 x 20 x 10 (cm), mỗi viên đều chạm khắc hình rồng. Những viên gạch này được lát
ở bậc thềm vào cung. Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh
Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến.
Trong hậu cung 12 gian có tượng Thánh Gióng cao 3m, hai bên có sáu tượng
quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận "Tứ trấn".
Kiến trúc đền không có gì đặc biệt, nhưng đáng chú ý là những đầu bẩy còn lưu
lại được những mảng chạm vào thời Hậu Lê.
Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong, đời Lê 12 đạo, đời Tây Sơn 3 đạo,
đời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm thứ 5 (1634).
Trong Đền, còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng
(thế kỷ XVII) chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị
Huệ, cung tiến, bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào
Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên Đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật
hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.
Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng, đền là nơi thờ mẹ Thánh
Gióng, cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung với Thánh
Gióng ở đền Thượng. Đến năm Chính Hòa thứ 4 (1683), Thánh Mẫu mới thờ ở đền
riêng tại thôn Ngô Xá. Mười năm sau đền lại được thiên về gần chùa Giếng (chùa Tập
- Phúc), tại chỗ hiện nay. Đền hiện còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: đôi
phỗng đá, một bộ dài bạc, hai bình hương đá...
Miếu Ban: ở phía tây đền Thượng, trong xóm Ban, tên chữ là Dục Linh Từ.
Miếu thờ Thánh Mẫu. Tương truyền đây là nơi Gióng ra đời, do đó còn có tên là
"Trài Nòn". Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài. Sau Miếu là giếng Bát Nhũ trì (ao tám
vú) giữa giếng nổi lên một gò đất con xinh xắn. Truyền rằng, Thánh Gióng ra đời trên
sập hiện đặt ở đảo này, sau đó được tắm trong chậu đá cũng đặt ở đây. Ngoài ra, còn
có một liềm đá mà người đá mà người ta đã xem là dao cắt rốn cho Thánh Gióng,
nhưng liềm hiện nay không còn nữa.
Cố viên: Theo truyền thuyết, cố viên (vườn xưa), cũng gọi là "vườn rau", là nơi
mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người Khổng Lồ, do đó mà mang
thai sinh ra Gióng. Ở đây có một nhà nhỏ gọi là "cây hương", bên cạnh là hòn đá lớn
hình thù đặc biệt với nhiều nét lồi lõm được xem là dấu chân của Người Khổng Lồ.
Còn một tấm bia mang dòng chữ "Đổng Viên Thánh Mẫu cố trạch" (Nhà xưa của
Thánh Mẫu trong vườn Đổng).
Giá Ngự: Ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội
đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá, từ đến Thượng đến đây trông ra khu soi
bia cạnh Đền Hạ nơi điệu múa cờ được biểu diễn.
Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô
Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong trong đoàn
quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.
Hàng năm, từ mồng 6 đến mồng 9 tháng 4 âm lịch, dân địa phương lại tổ chức
hội Gióng, ngày lễ chính là ngày mồng 9. Trước ngày này, dân làng đã tổ chức nhiều
trò chơi: Vật, chọi gà, đánh cờ, hát, đặc biệt là hát ải lao - một tục rất cổ. Trong ngày
lễ lớn vui nhất là trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, chia phe diễn lại sự tích Thánh
Gióng đánh giặc Ân.
Nhân vật anh hùng Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng yêu
nước Việt Nam. Hội Gióng là một đỉnh cao của sinh hoạt văn hóa cổ truyền Việt
Nam. Vì thế, người Việt Nam xưa và nay vẫn nhắc nhau lời răn:
"Ai ơi mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời"
Không chỉ là Làng Phù Đổng. Trong khu vực Đền Hùng ở Vĩnh Phúc, có Đền
Thượng, tức "Cửu trùng tiền điện" được dành để thờ Thánh Gióng. Làng Vệ Linh ở
huyện Sóc Sơn, phía bắc thủ đô Hà Nội, nơi tương truyền Gióng đã trút giáp để cùng
ngựa về trời, cũng có đền thờ Gióng, được nhà nước quân chủ tặng danh hiệu lớn:
"Xung thiên Thần vương".
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)
Trần Nhân Tông, một ông Vua-Phật
- Trần Trương
Chẳng phải siêu nhân do truyền thuyết thêu dệt, một con người có thật trong
lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long. Sau khi đã
hoàn thành sự nghiệp vẻ vang; đánh đuổi ngoại xâm, đem lại quyền sống, quyền mưu
cầu hạnh phúc cho muôn dân Đại Việt, đã từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi
hiển Phật… Đó là Đức Vua Trần Nhân Tông - một Hoàng Đế minh quân kỳ tài, góp
phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo lập đỉnh cao nền
văn minh Đại Việt.
Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14
đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua
cha là Trần Thánh Tông.
Ngài sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, tức vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ
và mất ngày 16 tháng 11 năm 1308 tức vào ngày 03 tháng 11 năm Mậu Thân.
"Khi đức vua sinh ra, được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan
sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, gọi là kim Tiên Đồng Tử, ở vào
bên tả có nốt ruồi đen" (1).
Thuở nhỏ, nhà vua thường theo vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí
xuất gia tu hành.
Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đã làm vua suốt 14
năm trời. Vì là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, Ngài có công lớn trong việc
lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng đất nước
phồn vinh.
Mười lăm năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là mười lăm năm vua Nhân
Tông tu hành và hiển Phật.
"Thế tôn bỏ ngai vàng quý báu, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng cao sang, non
xanh cắt tóc, mặc chim thước làm tổ trên đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai
cánh, tu pháp tịch diệt để tỏ đại chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác.
Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát vòng tục lụy, bỏ
chốn cung vua ra giữa son môn…"
Vua Trần đi tu, không phải để trốn đời, yếm thế, mà đi tu để nhập thế, cứu đời.
Có điều, nhà vua không phải cứu đời theo kiểu của một ông Vua, mà là theo kiểu của
thánh nhân.
Làm vua chỉ chăn dân trăm họ. Làm Phật cứu độ cả muôn loài bởi. Bởi vậy, tấm
gương Vua Phật tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại sáng. Ngài bứt khỏi cái bình
thường để vượt lên trở thành cái phi thường.
Bởi thế, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước này, bao
người đã làm vua. Song có ai được nhân gian ngưỡng vọng, tôn thờ như Vua Phật
Nhân Tông?
Vua Trần đi tu, không để tự biến mình thành lính gác biên thùy như lời nhận
định của Hải Lượng Thiền sư - người tự coi mình là đệ tử Tổ Trúc Lâm vào thế kỷ 18:
- "Người ta thấy Điều Ngự Đệ nhất Tổ đến chùa Hoa yên thì bảo là ngài xuất gia. Ta
biết rằng Đức Ngài lúc bấy giờ biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở
phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, sợ người ta dao động, cho nên nhằm được
ngọn núi Yên Tử là núi cao nhất, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai
tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, dựng lên ngôi chùa, thường thường dạo chơi để xem động
tĩnh cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm".
Một ông vua biểu trưng cho quyền lực quốc gia, trong tay có hàng vạn binh mã.
Quốc gia lâm nguy mỗi người dân trở thành một chiến sỹ… đâu lại trở thành một cái
tôi hữu hạn biến mình thành lính gác biên thùy.
Thực ra, đỉnh núi Yên Tử - nơi Vua Phật tu hành - không đủ cao để nhìn tới tận
biên cương phương bắc; không thể nhìn xa tận biển Đông. Cái nhìn hạn hẹp, cách lý
giải chủ quan của người đời sau như trên mà ngày nay chúng ta cứ mặc nhiên công
nhận đã làm giảm sút, lệch lạc cái động cơ và mục đích tu hành rất cao cả, thiêng
liêng của Vua Phật Nhân Tông. Việc coi Vua Trần trở thành người lính gác biên thùy
có thế là ý tưởng đẹp đẽ theo kiểu tư duy thời chiến tranh, có tác dụng giáo dục bao
thế hệ biết hy sinh cho cuộc sống yên bình hưởng lạc, xông pha nơi bom đạn chiến
trường, song vô tình đã làm giảm đi cái đẹp lớn lao của ông Vua hóa Phật.
Điều này dễ hiểu, vì lúc xuất gia, Vua Trần không nói cho ai biết vì sao mình lại
đi theo gót chân Bụt, và vì sao lại chọn về Yên Tử… để đời sau mặc sức luận bàn.
Phải chăng Yên Tử có đủ những điều kiện để giúp cho những bậc tu hành trì
đắc đạo, không kém gì xứ sở Phật đà Giá La (NairanJana) của Đức Phật Thích Ca?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo thành Phật là nhờ vào phép tu Thiền Định
dưới gốc cây Bồ Đề. Vua Trần cũng tu thiền, lấp pháp tu thiền để đạt đạo.
Thiền (Dhyana) là sự tập trung tư duy cao độ, được các nhà tu hành thực hiện
bằng cách ngồi im lặng (tĩnh tọa) gọi là tọa thiền, tham thiền nhập định hay thiền
định.
Phật giáo ngày nay chia thành 10 giáo pháp khác nhau, giống như 10 dòng sông
về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển,
giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật ở
trong tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tính thì lập tức thành
Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến
như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay
hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.
Họ chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tỏ để làm môn đơn truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ
khi nào đôi bên tâm đầu ý hợp, thông cảm đạo lý, truyền thụ đượ chân lý thì mới thực
hiện được phép tâm truyền.
Trong khi tham thiền nhập định người tu hành dùng phép điều thân và điều tâm.
Họ điều thân bằng cách tiết chế sự ăn uống, hơi thở và cơ thể theo những cách thức
nhất định của phép tu thiền định. Họ điều tâm bằng cách đưa tâm mình trở về một
trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối, không nghĩ việc dữ lành, thoát ly những ý niệm mê ngộ,
sinh tử, tiến đến mà an trú vào cảnh giới tuyệt đối, dẹp trừ ý niệm và ngôn ngữ: trừ
tuyệt tâm tư. Cả thân lẫn tâm trở về với trạng thái hoan lạc tĩnh lặng. Đến một lúc nào
đó, tất cả các ý niệm đều tiêu tán, hơi thở cũng gần như đoạn tuyệt chỉ có một trạng
- thái sáng suốt, bên trong không thấy có thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới, đó
chính là cảnh giới ngộ đạo.
Người tu theo pháp môn Thiền Định rất cần tới một nơi yên tĩnh, thanh tịnh để
ngồi thiền. Núi rừng Yên Tử cách biệt với phàm trần là một nơi lý tưởng để tu thiền.
Không bàn tới yếu tố tĩnh mịch, linh thiêng của ngọn núi này mà xét tới tính
khoa học của vấn đề, các nhà nghiên cứu cho rằng: Những quả núi lâu đời giống Yên
Tử như Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng), Phú Sỹ (Nhật Bản)… đều có lực từ trường khá
lớn. Những luồng điện này sẽ làm tăng thêm lực cho dòng lưu nhân điện trong thân
thể những người ngồi thiền nơi núi đó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nhập định
và thành đạo dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, cạnh núi Tượng Đầu. Sau khi đắc đạo,
ngài vẫn thường cùng với các đệ tử ngồi thiền định trên non Linh Thứu.
Người ngồi thiền mặt quay về hướng nam, lưng xây về hướng bắc là tốt nhất.
Khi ngồi, tư thế lưng phải thật thẳng đứng để cho luồng hỏa hấu của cơ thể lưu
chuyển dễ dàng trong cột sống. Muốn vậy người ta phải kê gối ngồi thiền, hay tận
dụng mặt bằng có độ dốc hơi nghiêng về phía trước. Vị trí ngồi thiền phải ở nơi thanh
tịnh, thoáng khí trong lành. Môi trường ô nhiễm sẽ làm cho khí Prana trong cơ thể
(được tạo ra sau khi tọa thiền) sẽ không được tinh khiết, bất lợi cho việc tạo luồng hỏa
hầu trong cơ thể người thiền.
Vạt núi sườn nàm của Yên Tử hợp cách rất tự nhiên giúp cho người thiền có
được đầy đủ các điều kiện ngoại cảnh để tu thiền, như có lực từ trường, việc ngồi
quay hướng nam, mặt dốc hơi nghiêng về phía trước tự nhiên và không khí trong lành,
thanh tịnh.
Vua về Yên Tử, bởi nơi này thủa trước, đã lưu danh kỳ tích An Kỳ Sinh tu tiên,
đắc đạo. Cuối thời Lý có thiền sư Hiện Quang, đầu thời Trần có nhà thiền sư Đạo
Viên, Tiêu Diêu. Đại Đăng là thầy độ của Điều Ngự Giác Hoàng cũng tu hành và đắc
đạo ở đây. Cho nên, việc Đức Điều Ngự Giác Hoàng lựa chọn Yên Tử để tu hành
không phải là vô căn.
Người tu thiền theo chính pháp và đạt đạo có được những quyền năng siêu việt
mà người thường không dễ gì có được. Phật giáo truyền rằng:
Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du
hành các cõi Phật. Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi
Phật đến quốc đọ của Đức Phật Thích Ca có tầm âm vang được bao xa.
Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng
vâng mệnh của Đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục giảng
thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-TaLa là vua nước Ma-
Kiệt-Đà đang bị giam cầm. Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn
thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp
người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức
Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có
phép tha tâm thông (thấy được lòng người khác) nên từ xa đã đọc được tư tưởng của
đại lệ tử Tu-Bồ-Đề.
Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên
đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang
- định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông
tỏ.
Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được
triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt
lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn
kính. Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có
được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các
nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm
Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim
triều Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc Đạo.
Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông
tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực. Từ chức vụ cao sang của
Nhà Vua, Vua Trần trở về ngôi tôn quý Nhà Phật. Nhà Vua từ cái nhất thời, hữu hạn
mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc chết, Vua Trần mới hóa Phật. Cái tên
Vua Bụt (Phật) đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.
"Bụt ở cung nhà, chẳng phải tìm xa. Nhân thiếu gốc nên ta tìm Bụt; Đến biét
hay Bụt chính là ta" (2).
Hàng năm, mỗi độ xuân về, hàng triệu cháu con của Rồng Tiên đất Việt và bạn
bè bốn phương lại về Yên Sơn lễ Phật và vãng cảnh.
Họ bồi hồi tưởng niệm đức Vua Trần. Một ông vua đã khước từ phú quý, vinh
hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn phồn hoa đô hội lên non xanh Yên Tử tu hành,
trút bỏ một cuộc sống lý tưởng của người thường để trở thành một đức Phật Đại Hùng
Đại Lực, Đại Bi và Đại Trí, xứng danh là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của Việt Nam.
Chú thích:
1. Trích "Đại Việt sử ký toàn thư"
2. Cư Trần Lạc Đạo Phú - Trần Nhân Tông, trích hợp tuyển văn học VN thế kỷ
X-XVII. Nxb Văn học HN-tr.111.
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)
Những điều ít được biết về hoàng đế Quang
Trung
Nguyễn Tấn Tuấn
Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng
dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn
- chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dần đưa vào Đàng trong khai hoang. Cụ tổ bốn
đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy
Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc dời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy
Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc
và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn
Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến
Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ,
Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiếu
- một nhà nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào
Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác
thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình.
Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng trong thành một nước riêng
biệt, sống xa hoa đàng điếm; Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập
chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả
sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: "Tây khởi nghĩa,
Bắc thu công", nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các
con phải gắng sức. Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa
bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với
khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan:
"Giận phó quốc ra lòng bội thượng, nên Tây Sơn xuống nghĩa cần vương". Trong
sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp
Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu
mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc
xoăn da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh.
Ông "có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh
sáng từ mắt soi sáng cả chiếu" (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của
nhà Lê nói rằng: "Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn
sợ sấm sét...". (Hoàng Lê nhất thống chí).
Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn
gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở
Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: "Chư quân, hãy vì ta giết sạch
chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài
vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu". Huệ vừa dứt lời, quân lính dạ ran
như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời
vang lên (Lê Quý kỷ sự). Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng dũng mãnh và
có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, 3 lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần
xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng,
- Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau,
đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào
nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi -
Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông
là hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và
cho lập Viện "Sùng chính", Bắc phong La Sơn phu tử nguyễn Thiếp làm viện trưởng
để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân.
Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi
Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, Huệ đã nói làm
cho mọi người đều cười ầm: "Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười
cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay
cũng thử xem có tốt không...". Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài
và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì
Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp... thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài
nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: "Đáng lẽ trẫm phải
ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các
ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nạng mà tối tăm
nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc
trách ban ơn tha tội cho các ngươi".
Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà hoàng
hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là anh em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi
Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 nguời con, 3
trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh
Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ
rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một
thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất.
Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Séerard đã kể: "Chánh hậu của Tiên
vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu
thảm".
Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển
Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn,
phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân
sinh ngày 27 tháng tư năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799).
Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con
gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa
Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự
- hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: "Con trai con gái nhà vua đã có
mấy người được vẻ vang như nàng?". Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc
đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo... Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân
hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công
chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài,
đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 14/2003)
Nguyễn Qúy Đức (1648 - 1720)
Quang
Bình
Nguyễn Qúy Đức, húy là Tộ, hiệu là Đường Hiên, ở làng Thiên Mỗ, nay là xã
Đại Mỗi, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 29 tuổi, đời Lê Hy Tông (1676), ông đã đỗ
nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh, tức Thám Hoa.
Năm Canh Ngọ (1690) ông được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cùng Nguyễn
Danh Nho. Năm Giáp Tuất (1794) thăng tả thị lang bộ Lễ, làm bồi tụng ở phủ chúa,
năm 1695 được thăng đô Ngụ sử. năm 1696, vì có việc xử án không thỏa đáng, ông đã
bị giáng xuống tả thị lang bộ Binh. Năm 61 tuổi (1708), ông được thăng Thượng thư
bộ Binh, được phong Tá lý công thần, ông cấm đoán mọi việc phiền hà, hạch sách,
nhũng nhiễu dân - Ông là người khoan dung, cảm thông với nỗi khó khăn vất vả của
nông dân, vì vậy thường khoan hồng với người trốn thuế hoặc thiếu thuế, bớt tạp dịch,
ông được dân ca ngợi "Tể tướng Qúy Đức, thiên hạ yên tức" (Tể tướng Qúy Đức,
thiên hạ yên vui). Năm Giáp Ngọ(1714) được thăng hàmthiếu phó, tước Liêm Quận
Công. Năm Đinh Dậu (1717), thăng Thái Phó Quóc lão, vinhphong Tá lý công thần.
Năm 72 tuổi, ông dâng sớ xin về trí sĩ. Hàng ngày ông dạo chơi quanh vùng, có khi
vác cuổca đồng cùng nông dân, khi cùng các bạn văn chương cùng nhau xướng họa.
Ông đã dành 10 mẫu ruộng được triều đình ban cho để tặng dân làng và trích ra 4 mẫu
lập chợ Khánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay. Ông là người thẳng thắn, không xu
nịnh, được người đời kính trọng.Tính tình ông đôn hậu, thương người, hòa nhã và
- bình dân nên được mọi người kính trọng, yêu mến. Nguyễn Qúy Đức luôn thể hiện là
một vị trung thần. Khi bàn luận chính sự, có điều gì chưa thỏa đáng thì kiên quyết giữ
ý kiến của mình, không ai lay chuyển nổi. Làm văn thì không cần trau chuốt, không
chuộng lối tầm chương trích cú nhưng ý tứ vẫn tinh tế, chặt chẽ. Việc sửa sang, trang
trí nhà Thái học, dựng bia Tiến sĩ (ở Văn Miếu), ông đều đích thân trông coi cho đến
khi hoàn thành tốt đẹp. Nguyễn Qúy Đức là nhà sử học, cùng với Lê Hi hoàn chỉnh
bản thảo cuối cùng của bộ Đại việt sử lý toàn thư (in năm 1697).
Nhận xét về ông, Phan Huy Chú viết: "Ông là người khoan hậu trầm tĩnh. Ngày
thường, thù tiếp ai thì dễ dàng, vui vẻ. Khi bàn luận trước mặt chúa, việc gì chưa thỏa
đáng, ông cố giữ ý kiến mình, bàn đến ba, bốn lần, không ai ngăn được. Ông làm văn
không cần trau chuốt mà ý sâu. Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông
thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu...".
Sự nghiệp trước tác và chấn hưng văn học, giáo dục của Nguyễn Qúy Đức cũng
khá rạng rỡ.Về thơ, ông có Thi châu tập, Hoa trinh thi tập và 72 bài thơ chép trong
Toàn Việt thi lục. Ngoài ra ông còn có một số thư văn nôm chép lẫn với thơ văn chữ
Hán trong sách Nguyễn Qúy thị văn phả, gồm 5 tập, hiện còn được lưu giữ tại nhà con
cháu ông.
Khi còn nhỏ, Nguyễn Qúy Đức đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn. Gia phả
họ Nguyễn Qúy làng Đại Mõ còn ghi lại một bài thơ của Nguyễn Qúy Đức khỉa chơi
chùa Trấn Quốc.Bài thơ theo thể "thuận nghịch độc", tức là đọc xuôi, đọc ngược đều
thành thơ, đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược là thơ chữ Nôm. Bài thơ như sau:
Đọc xuôi:
Trang nghiêm cảnh tĩnh thảm chi viên
Thú vị màu ni thế giới tiên
Hương phất bàng mai hoa bích vựng
Nguyệt lai lung trúc ấn thanh liên
Sương đàm bích diệp hoa lung viện
Tuyết ánh ngân đài nguỵet trú thuyền
Lương văn bối kinh phô ngọc ấn.
Quang phòng chiếm liểu liểu chân thiên.
Đọc ngược:
Thiên chân leo lẻo chiếm phong quang
An ngọc phô linh buổi văn lương
Thuyền chứa nguyệt đài ngần ánh tuyết
Viện lồng hoa diệp biếc đầm sương
Sen xanh ấn trúc lung lay nguyệt
Vừng biế hoa mia phảng phất hương
Tiên giới thế này màu vị thú
- Vườn chi đất tĩnh cảnh nghiêm trang.
Ông là người ham thích thơ văn cổViệt Nam, sao lục tàng trữ ở nhà. Bài tiểu
dẫn khi khắc lại sách Quần hiền phú tập của Hoàng Sần Phu có đoạn viết: Sách Quần
hiền phú tập bản khắc cũ tan nát không còn. Năm Đinh Dậu (1717) đã nhân được một
bản sao cũ của nhà Nguyễn Qúy Đức, đem về hiệu đính và chú giải..." Hiện nay thư
viện Khoa học xã hội còn giữ được một bản sao chép sách Quần hiền phú tập, 6
quyển, cộng 214 tờ... Rõ ràng nhờ sự ham thích thơ văn cổ của Nguyễn Quý ĐỨc mà
Quần hiền phú tậpcòn lại đến ngày nay.
Tương truyền, Nguyễn Qúy Đức là người đối đáp giỏi nổi tiếng. Khi còn nhỏ,
một lần gặp quan huyện trong một quán nước,quan huyện hỏi:
- Cậu đã học sách gì rồi?
Đức đáp: đã học hết sách luận ngữ. Ông huyện liền ra một về đối toàn chữ trong
sách Luận ngữ:
Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí.
(Ăn không cần no, ở không cần yêu, đúng chí quân tử)
Đức ứng khẩu đối ngay, cùng dùng toàn chữ trong Luận ngữ:
Chiêu nhi bất lai, lung nhi bất khứ, xã tắc thần
(Vẫy không chịu lại, xua không chịu đi, phò xã tắc đáng mặt bề tôi)
Ông huyện rất kinh ngạc, hết lời khen ngợi.
Có lần Đức đi chăn trâu, chẳng may để trâu ăn khoai của làng Cầu Đơ. Ông phủ
đi qua, sai lính bắt trâu. Đức xin trâu về, ông phủ ra điều kiện phải đối được vế đối
của ông thì mới tha. Vế đối như sau:
Khoai Đơ xanh tốt nhờ về phủ
(Câu này có nghĩa là khoai xanh tốt là do được phủ rơm rạ,cũng có nghĩa là nhờ
quan phủ)
Đức nghe xong, đối luôn:
Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi cónghè.
(Nghè là lấy chày nện tấm lĩnh cho mịn mặt, còn có nghĩa là ông nghè).
Quan phủ khen về đối có khẩu khí hơn người, liền trao trả trâu cho Đức.
Tương truyền một lần chúa Trịnh Cương xem bài thơ Lăng mẫu tống sứ giả của
Lê Thánh Tông thấy thiếu 2 câu vì thất truyền, chỉ còn 6 câu:
Đình phô đằng đẵng ngựa rời chân
Nỗi mẹ con này gửi sứ quân
Nhớ Hán, lòng còn son một tấm
Thương Lăng, tóc đã bạc mười phân
.....
Minh thiếp lá vàng dầu mỏng mảnh
Về thời khuyên nó nghĩa quân thần.
- Chúa Trịnh Cương bảo các quan nghĩ 2 câu để bổ khuyết, Chưa ai nghĩ ra thì
Nguyễn Qúy Đức đã đọc 2 câu (đúng như lối thơ nôm đời Hồng Đức, câu 5-6 chỉ có 6
chữ):
Niềm trung hiếu khôn hai vẹn
Hội công danh dễ mấy lần
Chúa ngợi khen và thưởng cho hai hốt bạc.
Ở Quốc Tử Giám hơn 10 năm, ông đã có nhiều công lao trong việc đào tạo nhân
tài cho đất nước. Ông cũng có công lớn trong việc xây dựng Đại thành điện, hai bên
giải vũ ở Quốc Tử Giám và trông coi việc dựng 20 tấm bia tiến sĩ (Văn Miếu) trong
20 khoa thi từ 1656 đến 1715 và đứng tên nhuận sắc nhiều bài văn bia.
Tại xã Đại Mỗ hiện còn giữ được bức vẽ chân dung ông. Nhà vuông "Lạcthọ
đình" do ông xây dựng ở quê hương, trồng cây từng cây bách, làm chỗ họp mặt vui
chơi của các phụ lão, nay tuy không còn, nhưng tấm biển "Lạc thọ đình" đề tên ngôi
nhà âý, vẫn còn giữ được.
Tục ngữ xưa có câu: "Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh Cót" để chỉ những làng của
huyện TỪ Liêm cũ có nhiều người hiển đạt và nổi tiếng về văn học. Xếp hàng đầu là
làng Đại Mỗ vì có gia đình Nguyễn Qúy, Nguyễn Qúy Đức và con là Nguyễn Qúy Ân
đều đỗ tiến sĩ, cháu nội là Nguyễn Qúy Kinh đỗ hương cống (cử nhân), ba đời đều giữ
những chức vụ trọng yếu trong triều, khi mất đều được phong làm phúc thần.Hiện nay
ở địa phương còn truyền tụng câu đối:
Đỉnh giáp nhất môn thiên hạ hữu
Phúc thần tam diệp thế gian vô
Dịch:
Khoan giáp một cửa tập trung, họa có trong thiên hạ Phúc thần ba đời tiếp nối,
không thấy ở thế gian.
Nguyễn Đức Qúy, một danh nhân của Thăng Long - Hà Nội đã làmvẻ vang,
rạng rỡ thêm cho dòng họ Nguyễn Qúy, cho quê hương Đại Mỗ - Từ Liêm và truyền
thống ngàn nămvăn hiến của đất "kinh sư muôn đời".
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 21/2004)
Những gương mặt tuổi trẻ Thăng Long
PGS.TSKH.
Nguyễn Hải Kế
- Người tiêu biểu cho không chỉ thế hệ đầu tiên được sinh thành trên kinh thành
mang tên Thăng Long, mà còn cho muôn đời với sự nghiệp vẻ vang "cẩm quân tất
thắng, trị nước an dân" đó là Ngô Tuấn, tự Thượng Kiệt, ở phường An Xá trên bãi
sông Nhị... Mồ côi cha từ khi mới 13, Ngô Tuấn được chú, được thầy Lý Công Ân hết
lòng dạy dỗ, chăm sóc. Cho đến trước tuổi 20, ở ngôi trường Bái Ân, ở các thư phòng
hay các võ trường khác của Thăng Long, Tuấn đã dồn tâm sức của mình vào việc học
tập võ nghệ, binh pháp, các sách văn chương, đạo đức khác... Chính những tháng năm
ấy đã chuẩn bị cho con đường phát triển tiếp tục, vẻ vang của ngô Tuấn.
Từ năm 23 tuổi (1041) Ngô Tuấn được bổ làmthị vệ trong cung vua Lý. Hai
năm sau, ông đã được trông coi tất cả việc trong cung.
Năm 43 tuổi, Lý Thường Kiệt (trước đó Ngô Tuấn đã mang họ vua) đi vùng
Thanh Nghệ, lập lại trật tự trị an của cả vùng năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai
mươi bốn động.
Năm 51 tuổi, ông trực tiếp kinh lý làm yên biên cương phía Nam của Đại Việt
rồi về Thăng Long làm Phụ quốc Thái úy, đỡ đần vị vua mới 7 tuổi (1072).
Năm 1075, Lý Thường Kiệt dẫn đại quân ngược lênphía Bắc "tiênphát chế
nhân" - tiêu diệt - trước sào huyệt gây tội ác của giặc, lậpphòng tuyến sông Cầu, chôn
vùi cuồng vọng xâmchiếm nước ta của quân xâm lược nhà Tống...
Năm 1300, tức là sau 230 năm ngày Quốc Tử Giám khai trường, có một cậu bé
quê làng Thổ Hoàng: Thiện Thi (Ân - Thi - Hưng Yên) đến nhập trường và trở thành
người Thăng Long. Cậu người họ Nguyễn, tên là Cốt sau này đổi thành Ngạn -
Nguyễn Trung Ngạn. Mười bốn năm sau, cậu học trò trưởng thành trên mảnh đất
Thăng Long và được vua Trần giao cho nhiệm vụ làm Chánh sứ sang YênKinh
(Trung QUốc) đặc trách công việc ngoại giao với nhà Nguyên trong hoàn cảnh hết
sức khó khăn phức tạp. Nguyễn Trung Ngạn không một chút nề hà, đã hăng hái ra đi
và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chính trong chuyến đi này, vị chánh sứ trẻ tuổi đã
viết hàng trăm bài thơ thể hiện ý chí tình cảm của lớp thah niên sinh ra và lớn lên
trong hào khí Đông A, tự nâng mình lên trong trường trí tuệ lớn Thăng Long và rất tự
biết mình.
Đây là bài thơ Nguyễn Trung Ngạn tự nói về mình:
"Giới Hiền tài đáng bậc quan cao,
Tuỏi trẻ đà lám chí nuốt trâu,
Tuổi mới mới mười hai vào thái học,
Đến năm mười sáu dự thi đình,
Hai mươi bốn tuổi làm quan giám
Hai mươi sáu tuổi sáng sứ Yên Kinh"
nguon tai.lieu . vn