- Trang Chủ
- Luật học
- Đại diện của pháp nhân – điểm tương đồng và khác biệt giữa Bộ luật dân sự và luật chuyên ngành có liên quan
Xem mẫu
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
ĐẠI DIỆN CỦA PHÁP NHÂN – ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ LUẬT CHUYÊN NGÀNH CÓ LIÊN QUAN
Nguyễn Văn Hành1
Tóm tắt: Trong hệ thống pháp luật tư Việt Nam, Bộ luật dân sự được coi là luật chung, làm cơ
sở cho các ngành luật chuyên ngành để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật dân sự nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội đặc thù thuộc ngành mình quản lý có hiệu quả. Nguyên tắc chung, giữa luật
chung và luật chuyên ngành luôn luôn phải đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng thực tiễn. Do
Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời sau một số luật chuyên ngành như Luật doanh nghiệp năm 2014,
Luật công chứng năm 2014, Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi bổ sung hợp nhất năm 2015 (Luật
luật sư)… nên ít nhiều vai trò của luật chung bị ảnh hưởng và có một số nội dung luật chuyên
ngành có liên quan bị xung đột. Bài viết nghiên cứu về chế định đại diện của pháp nhân, tiếp cận
dưới góc độ một số vướng mắc cơ bản về đại diện trong mối quan hệ tương đồng, khác biệt và xung
đột giữa quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và một số luật chuyên ngành có liên quan.
Từ khóa: Pháp nhân, đại diện của pháp nhân, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật chuyên ngành
có liên quan.
Nhận bài: 10/11/2020; Hoàn thành biên tập: 10/12/2020; Duyệt đăng: 21/12/2020.
Abstract: In the Vietnamese private legal system, the Civil Code is considered a general law, serving
as the basis for specialized law branches to specify the provisions of the Civil Code to effectively regulate
communal relations in the industry they manage. The general principle, between general law and
specialized law, must always ensure the consistency in practical applications. Since the Civil Code2015
was issued after a number of specialized laws such as the Enterprise Law 2014, the Notary Law 2014,
the Law on Lawyers in 2006 were amended and supplemented in 2015 (Lawyer Law) ... so the roles of
the general law were affected to some extent and some of the relevant specialized law contents were
conflicted. The paper researches on representation statutes of legal entities, approaching from the
perspective of some basic problems about representation in similarity, differences and conflicts between
the provisions of the Civil Code 2015 and some related specialized Law.
Keywords: Legal entity; representatives of legal entities; Civil Code 2015, The relevant specialized law.
Date of receipt:10/11/2020; Date of revision: 10/12/2020; Date of approval: 21/12/2020.
1. Chủ thể đại diện của pháp nhân đại diện của tổ chức đó ra đời để thực hiện sứ
Pháp nhân là một tổ chức hoạt động và tồn mệnh thay mặt cho tổ chức thực hiện việc điều
tại trong mối quan hệ phối kết hợp giữa các hành và đối ngoại. Theo nghĩa rộng hơn, đại
thành viên, các bộ phận cấu thành. Trong đó, diện còn được hiểu là thay mặt cho người khác,
mỗi thành viên, mỗi bộ phận cấu thành đều có tổ chức khác khi được ủy quyền để tham gia
quyền và nghĩa vụ vừa riêng biệt vừa phối kết một số quan hệ cụ thể.
hợp để duy trì hoạt động bình thường của tổ Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 đã có sự
chức. Tuy nhiên, khi thực hiện việc điều hành thay đổi căn bản theo hướng mở rộng hơn về chủ
tổ chức cũng như thực hiện các quan hệ đối thể đại diện. Nếu như Điều 193 BLDS năm 2005
ngoại với cơ quan, tổ chức khác thì không thể quy định chưa rõ về vai trò của pháp nhân là chủ
tất cả các thành viên hoặc và các bộ phận đó thể đại diện, nên cách hiểu phổ biến là chỉ cá nhân
cùng hoặc thay nhau làm việc. Do đó, phải có mới là chủ thể đại diện. Đến BLDS năm 2015 đã
1
Thạc sỹ, Công ty Luật TNHH Biển Bắc, NCS Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
- Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
mở rộng để pháp nhân cũng là chủ thể đại diện, tại của pháp luật nội dung. BLTTDS sử dụng thuật
Điều 134 xác định “Đại diện là việc cá nhân, ngữ “Cơ quan, tổ chức” thay vì thuật ngữ “pháp
pháp nhân (gọi chung là người đại diện) nhân nhân”.
danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân Trường hợp pháp nhân là đại diện, pháp nhân
khác (gọi chung là người được đại diện) xác lập có bắt buộc phải đăng ký ngành nghề kinh doanh
thực hiện giao dịch dân sự”. Quy định này cũng trong lĩnh vực đại diện hay không? Với tổ chức
tương thích với Điều 12 Luật doanh nghiệp năm hành nghề luật sư thì đương nhiên được hoạt
2020 cho phép một doanh nghiệp (công ty trách động đại diện trong lĩnh vực tố tụng, sở hữu trí
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần) có thể có một tuệ...các pháp nhân khác không có chức năng đại
hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Tuy diện tố tụng mà không thuộc trường hợp pháp
nhiên, các quy định nêu trên đang gặp một số vấn luật cấm thì có được đại diện không. BLTTDS
đề vướng mắc về thực tiễn thực hiện. năm 2015 chỉ quy định cấm cá nhân đại diện
Về vấn đề pháp nhân là đại diện: căn cứ xác theo ủy quyền tham gia tố tụng đối với một số
lập quyền đại diện được xác định theo ủy quyền người cụ thể, không cấm đối với pháp nhân.
giữa người được đại diện và người đại diện; theo Điều 85 BLTTDS năm 2015 ghi nhận: khi pháp
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nhân là đại diện thì chỉ người đại diện của pháp
theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy nhân đó thực hiện hay mọi thành viên trong pháp
định của pháp luật (Điều 135 BLDS năm 2015). nhân đại diện được thực hiện, nếu mọi thành
Tại Điều 138 BLDS năm 2015 quy định “cá viên được thực hiện thì thông qua thủ tục gì? Tại
nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, Điều 39 Luật luật sư cũng không quy định cụ thể
pháp nhân khác xác lập thực hiện giao dịch dân tổ chức hành nghề luật sư được đại diện tham
sự”. Với quy định này thì chỉ hai loại chủ thể gia tổ tụng, mà quy định này ghi nhận gián tiếp
được đại diện là cá nhân và pháp nhân, thiếu tại Điều 22 Luật luật sư về phạm vi hành nghề
vắng tư cách ủy quyền của các tổ chức không của luật sư của cá nhân luật sư được đại diện
phải là pháp nhân. Hơn nữa, pháp luật hiện tại tham gia tố tụng.
không quy định cụ thể nếu pháp nhân là đại diện Pháp luật quy định pháp nhân là đại diện
thì có đương nhiên những người đại diện theo chưa cụ thể rõ ràng nên thực tiễn áp dụng còn
pháp luật của pháp nhân đó phải thực hiện việc nhiều vướng mắc. Nhiều Tòa án không chấp
đại diện hay những người này có được quyền cử nhận các tổ chức luật sư là đại diện theo ủy
thành viên trong pháp nhân thực hiện việc đại quyền vì người trực tiếp thực hiện là đại diện cho
diện hay không. Vấn đề đặt ra cần phải xem xét tổ chức đó hay là thành viên của tổ chức đó. Do
là tổ chức không phải là pháp nhân có được là vậy, các Tòa án thường chỉ chấp nhận luật sư cụ
đại diện không vì chỉ khi tổ chức có đủ một số thể thực hiện đại diện tham gia tố tụng. Việc xác
tiêu chí nhất định thì mới được xác định là pháp định cụ thể người đại diện sẽ thuận tiện hơn cho
nhân và chỉ khi là pháp nhân mới được là đại việc tống đạt văn bản tố tụng đến người đó được
diện. Nếu tổ chức không được thì doanh nghiệp đảm bảo đúng nguyên tắc văn bản tố tụng được
tư nhân, hợp tác xã... không được đại diện cho tổ tống đạt đến đúng người tham gia tố tụng. Do
chức cá nhân khác. quy định không rõ ràng nên đã phát sinh thủ tục
Từ nội dung của BLDS, Luật doanh nghiệp... rườm rà khi công dân thiết lập một giao dịch với
so sánh với quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự tổ chức hành nghề luật sư thì phải ký Hợp đồng
(BLTTDS) năm 2015, tại Điều 186 quy định “cơ dịch vụ pháp lý hoặc có đơn mời luật sư thực
quan, tổ chức và cá nhân có quyền tự mình hoặc hiện việc bảo vệ quyền lợi, đồng thời muốn ủy
thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện quyền cho tổ chức hành nghề luật sư phải ký văn
vụ án ....”. Có thể nói, phạm vi chủ thể trong bản ủy quyền cho luật sư cụ thể để được Tòa án
BLTTDS được mở rộng hơn so với các quy định chấp nhận tư cách đại diện của luật sư.
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Để tháo gỡ những vướng mắc này, Tòa án Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm trên thì
nhân dân Tối cao cần có hướng dẫn nghiệp vụ theo tác giả việc quy định pháp nhân có nhiều
cụ thể với trường pháp nhân là đại diện bên đại diện có một số nhược điểm nhất định:
cạnh hướng dẫn về thủ tục công nhận người bảo (i) Chưa xác định cụ thể rõ vai trò, trách
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự để nhiệm, phạm vi đại diện của mỗi người. Điều
quy định này được áp dụng thống nhất trong này sẽ dẫn đến thực tiễn áp dụng đó là có sự
thực tiễn xét xử. chồng chéo các công việc do nhiều người đại
2. Pháp nhân có nhiều người đại diện diện cùng thực hiện hoặc có sự đùn đẩy công
Trong suốt quá trình xây dựng và thực thi việc cho nhau vì không phân biệt nội dung nào
pháp luật dân sự và pháp Luật doanh nghiệp đã là của ai, khi có tranh chấp xảy ra không quy
phần nào nhận thấy hạn chế của việc khi pháp phạm để điều chỉnh.
nhân chỉ có duy nhất một người đại diện nên (ii) Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của
lần sửa đổi bổ sung này các nhà làm luật đã pháp nhân không ghi cụ thể phạm vi đại diện cụ
mạnh dạn luật hóa để pháp nhân có quyền có thể của mỗi đại diện mà chỉ ghi chung chung là
hơn một người đại diện. Việc quy định pháp đại diện. Pháp luật thì quy định phạm vi đại diện
nhân có nhiều đại diện có thế thấy một số ưu được quy định trong điều lệ doanh nghiệp, tuy
điểm nhất định. nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng nhận
(i) Đảm bảo được sự không ngắt quãng của thức được nội dung này nên có nhiều doanh
đại diện pháp nhân khi có một đại diện vắng mặt nghiệp không đề cập nội dung này vào điều lệ.
cho dù bất cứ lý do gì. Điều này là rất quan Như vậy, không phân định được phạm vi đại
trọng, do hoạt động của pháp nhân đòi hỏi phải diện của từng đại diện và khó khăn cho việc giải
thường xuyên, liên tục và việc kinh doanh có quyết xung đột ý kiến của các đại diện.
tính cơ hội. Trong trường hợp đại diện pháp nhân Mặt khác, việc pháp nhân có nhiều đại diện
vì bất khả kháng mà vắng mặt bất thường (tạm dẫn đến phiền hà cho đối tác mỗi khi ký kết hợp
giữ, tai biến, đột quỵ ...) nếu không có người đồng giao dịch, đối tác muốn xác định rõ hơn về
khác đại diện và không thể ủy quyền được thì có đại diện thì phải tìm hiểu cụ thể về điều lệ để
người khác là đại diện đương nhiên là hết sức xem tư cách của đại diện ký hợp đồng với mình
cần thiết. Những người đại diện khác sẽ ngay lập có đúng không. Như vậy, điều lệ công ty là hồ sơ
tức đại diện cho pháp nhân để xác lập thực hiện bắt buộc công khai với đối tác để họ xác định
các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp mà việc mình ký hợp đồng với người có đủ tư cách
không bị gián đoạn. Đặc biệt trong xu thế hội đại diện hay không, và nếu điều lệ không quy
nhập quốc tế thì việc quy định có nhiều người định thì gặp khó khăn để xác định tư cách đại
đại diện là tất yếu khách quan để đảm bảo cho diện của người ký hợp đồng.
pháp nhân có điều kiện cập nhật liên tục thông Trường hợp đối tác không xem xét điều lệ thì
tin quốc tế và áp dụng vào hoạt động kinh doanh có thể tham gia giao dịch với người không có tư
của doanh nghiệp. cách đại diện dễ dẫn đến tranh chấp sau này. Nếu
(ii) Có sự phân công, phân nhiệm rõ cho đối tác yêu cầu xuất trình văn bản chứng minh
từng đại diện đảm trách lĩnh vực của mình khi người đại diện có thẩm quyền ký kết giao dịch
pháp nhân hoạt động đa lĩnh vực. Pháp nhân có thì bị coi là hoài nghi và không tế nhị trong kinh
điều kiện để sắp xếp mỗi lĩnh vực có một đại doanh. Về nội dung này, chúng ta thấy đã có sự
diện có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn sâu thống nhất giữa luật chung - BLDS và luật
rộng phụ trách lĩnh vực đó theo sở trường của chuyên ngành - Luật doanh nghiệp. Theo quy
mình mà nếu người khác đại diện đảm nhiệm thì định tại Điều 4 BLDS năm 2015:
không hiểu quả bằng hoặc phải mất thời gian để “1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các
tìm hiểu. quan hệ dân sự.
- Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
2. Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ Về các trường hợp pháp nhân có nhiều đại
dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái diện tham gia tố tụng. Các quy định của BLDS
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và BLTTDS không cấm pháp nhân ủy quyền cho
quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. nhiều người đại diện tham gia tố tụng. Thực tế,
3. Trường hợp luật khác có liên quan không có rất nhiều trường hợp pháp nhân ủy quyền cho
quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm Khoản hai người đại diện để tham gia tố tụng hoặc làm
2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp việc với các cơ quan nhà nước khác, với đối tác
dụng. với mục đích nếu người này vắng thì có người
4. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định kia đại diện để vụ việc không bị gián đoạn trong
của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa quá trình giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật chưa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng dự liệu trường hợp hai người đại diện cho một
một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước pháp nhân nhưng quan điểm của hai người đại
quốc tế”. diện lại trái ngược nhau trong quá trình tham gia
Từ quy định trên chúng ta thấy qua lần pháp giải quyết vụ, việc dẫn đến không biết quan điểm
điển hóa này, lần đầu tiên BLDS khẳng định vị của ai là chính thống. Pháp nhân sẽ lợi dụng quy
trí vai trò của mình trong việc điều tiết các quan định này để ủy quyền cho nhiều đại diện để khi
hệ dân luật trong nước với vai trò là luật chung thấy bất lợi cho mình thì thống nhất hai người
và được ưu tiên áp dụng. Tại Khoản 2 Điều 12 có quan điểm khác nhau và lấy đó làm lý do kéo
Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định cụ thể dài vụ việc hoặc sửa sai quan điểm vì cả hai qua
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty điểm đều là quan điểm của pháp nhân.
cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại Ví dụ, ông A và ông B là luật sư thuộc Đoàn
diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ Luật sư thành phố Hà Nội cùng đại diện cho
thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, Công ty CP X là nguyên đơn trong vụ án yêu cầu
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của tuyên vô hiệu hợp đồng bảo đảm tài sản của
doanh nghiệp. Tại Khoản 2, Điều 137, BLDS người thứ ba do Tòa án nhân dân tỉnh Y thụ lý
năm 2015 quy định một pháp nhân có thể có giải quyết. Trong quá trình giải quyết, Công ty Y
nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi biết khả năng Tòa án không chấp nhận yêu cầu
người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân khởi kiện của mình nên đã yêu cầu chỉ một mình
theo quy định tại Điều 140 về thời hạn đại diện, ông A làm đơn rút đơn khởi kiện và hồ sơ kèm
về chấm dứt đại diện; Điều 141 quy định về theo. Tòa án nhân dân tỉnh Y đã căn cứ vào đơn
phạm vi đại diện được dựa trên các căn cứ: rút đơn khởi kiện của ông A và Điều 192
Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Điều lệ BLTTDS năm 2015 để đình chỉ việc giải quyết
của pháp nhân; Nội dung ủy quyền; quy định vụ án. Ngay sau khi nhận quyết định đình chỉ,
khác của pháp luật. Tuy nhiên, điều luật cũng Công ty X kháng cáo quyết định với lý do việc
chỉ ra trường hợp không xác định được cụ thể rút đơn khởi kiện là quan điểm của ông A, ông B
phạm vi đại diện theo các căn cứ nêu trên thì không có quan điểm rút đơn nên Tòa án chỉ căn
người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, cứ vào đơn của ông A để ra quyết định đình chỉ
thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người là không đúng và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy tuyên hủy quyết định đình chỉ của cấp sơ thẩm.
định khác. Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm
Tìm hiểu quy định trên chúng ta thấy điều xem lại phạm vi ủy quyền thì thấy không có sự
luật dùng thuật ngữ người đại diện theo pháp luật ưu tiên cho ý kiến của mỗi đại diện và phải xem
có thể đã bị giới hạn về chủ thể đại diện chỉ áp xét chỉ một người đại diện có quan điểm thì quan
dụng với người đại diện theo pháp luật, không điểm đó có được coi là đại diện cho pháp nhân
áp dụng đối với đại diện theo ủy quyền. hay không.
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Từ vấn đề này, pháp luật cần quy định hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào nhưng chỉ cần
phương án giải quyết đối với trường hợp hai đại thông báo trước cho bên kia biết một thời gian
diện cùng đại diện cho một pháp nhân mà có hai hợp lý. Theo quy định này, việc chấm dứt hoặc
quan điểm khác nhau thì quan điểm của đại diện hủy bỏ quan hệ ủy quyền chỉ cần ý chí đơn
nào là chính thức. Có như vậy thì vụ việc mới phương từ một bên, ý chí này được thể hiện bằng
giải quyết được nhanh chóng, khách quan và việc thông báo cho bên kia biết trong một thời
đúng pháp luật. gian hợp lý mà không cần có sự đồng ý của bên
Chúng tôi cho rằng, nên có quy định hướng kia thì quan hệ ủy quyền mặc nhiên chấm dứt.
dẫn thống nhất trong trường hợp có nhiều đại Việc giải quyết hậu quả việc chấm dứt ủy quyền
diện mà có sự mâu thuẫn về quan điểm giữa các phụ thuộc vào việc ủy quyền có thù lao hay
đại diện thì quan điểm của đại diện nào là chính không, việc giải quyết hậu quả này không làm ảnh
thống, bởi khi ký văn bản ủy quyền đại diện hưởng đến việc chấm dứt ủy quyền.
bên ủy quyền buộc phải xác định quan điểm Vấn đề là theo điều luật trên thì thủ tục chấm
của đại diện nào là chính thống nhằm tránh dứt là rất đơn giản chỉ cần thông báo để bên kia
tranh chấp về quan điểm của đại diện. là xong. Quy định này là phù hợp thực tiễn vì
3. Vấn đề chấm dứt đại diện của pháp trong quan hệ ủy quyền, người ủy quyền không
nhân bị hạn chế quyền của mình, trong thời hạn ủy
Vấn đề chấm dứt đại diện của pháp nhân quyền cho người khác thực hiện công việc, bên
được pháp luật dân sự và các luật các luật ủy quyền vẫn có quyền tự mình thực hiện công
chuyên ngành có liên quan điều chỉnh khá cụ việc đó, nói cách khác bên ủy quyền không bị
thể. Tuy nhiên, các luật chuyên ngành hầu như mất quyền. Bên nhận ủy quyền mà đơn phương
chỉ tập chung đến việc chấm dứt đại diện của chấm dứt thì bên ủy quyền vẫn có quyền nên chỉ
pháp nhân đương nhiên theo luật định. Trong cần thủ tục thông báo là quan hệ ủy quyền chấm
thực tiễn, để tham gia một số quan hệ trong xã dứt, pháp luật không thể bắt buộc một người
hội, pháp nhân không thể không ủy quyền cho phải hành động thực hiện nghĩa vụ theo ủy
đại diện để tham gia các quan hệ này với mục quyền.
đích không những nhằm đảm bảo sự hoạt động Theo Luật công chứng năm 2014 thì hai bên
của pháp nhân mà còn đảm bảo trật tự quản lý đã ký hợp đồng ủy quyền tại tổ chức công
của cơ quan nhà nước. chứng, trong quá trình thực hiện mà một bên
3.1. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền muốn chấm dứt việc ủy quyền thì bắt buộc phải
Xét về bản chất đại diện theo ủy quyền là cá có sự đồng ý của bên còn lại. Như vậy phải có sự
nhân hoặc pháp nhân (bên nhận ủy quyền) thực thỏa thuận giữa hai bên thì mới chấm dứt được
hiện công việc theo sự ủy quyền của bên ủy quyền. việc ủy quyền. “Việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ
Quan hệ ủy quyền là giao dịch dân sự nên cũng hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ
tuân theo quy luật phát sinh, tồn tại và chấm dứt. được thực hiện khi có sự thoả thuận, cam kết
Các trường hợp chấm dứt quan hệ ủy quyền và bằng văn bản của tất cả những người đã tham
cách thức thực hiện việc chấm dứt được pháp luật gia hợp đồng, giao dịch đó và phải được công
quy định cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn cần chứng”2.
phải xem xét trong mối quan hệ giữa các ngành Với quy định của Luật công chứng rất khó
luật với nhau và mối quan hệ giữa luật chung và áp dụng trong thực tiễn, có thể vì bất cứ lý do
luật chuyên ngành. nào đó mà một trong hai bên trong hợp đồng ủy
Tại Điều 569 BLDS năm 2015 quy định một quyền muốn chấm dứt việc ủy quyền và bắt
trong hai bên đều có quyền đơn phương chấm dứt buộc phải cả hai bên cùng đến tổ chức công
2
Điều 51 “Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch” Luật công chứng năm 2014.
- Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
chứng để ký văn bản hủy bỏ hợp đồng ủy quyền nhưng Văn phòng công chứng giải thích căn cứ
nhưng chỉ cần một trong hai bên không đồng ý vào Điều 51 Luật công chứng thì việc hủy bỏ
ký hủy hợp đồng thì hợp đồng ủy quyền vẫn có hợp đồng phải được hai bên thống nhất bằng
hiệu lực pháp luật. Như vậy, trái với luật chung văn bản. Như vậy ông A không đồng ý thì việc
quy định về việc chỉ cần một bên thông báo cho hủy bỏ hợp đồng giữa hai bên không thể thực
bên kia biết là mặc nhiên chấm dứt quan hệ ủy hiện được. Điều này gây phiền hà cho Công ty
quyền. Về thực tiễn quy định của Luật công X vì ông A lấy lý do hợp đồng ủy quyền vẫn
chứng đã cản trở quyền của của công dân và đang có hiệu lực nên không bàn giao tài sản
trái với tinh thần tại Điều 4 BLDS năm 2015 về mình đang quản lý cho Công ty X.
tính ưu tiên trong áp dụng pháp luật. Với quy 3.2. Chấm dứt đại diện theo pháp luật
định của Luật công chứng đã khiến cho một Căn cứ để xác lập quyền đại diện theo pháp
trong hai không thể thực hiện thủ tục hủy bỏ luật của pháp nhân là theo quyết định của cơ
hợp đồng ủy quyền nếu một bên không đồng ý quan nhà nước có thẩm quyền; theo Điều lệ
do Công chứng viên không thể công chứng của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp
được văn bản chấm hủy bỏ việc ủy quyền. Có luật. Như vậy, đại diện theo pháp luật của pháp
lẽ, Luật công chứng được ban hành trước nhân được hiểu là Nhà nước trao quyền hoặc
BLDS nên có sự xung đột này, hy vọng rằng nhà nước thừa nhận thông qua Điều lệ hoạt
việc pháp điển hóa Luật công chứng lần tới sẽ động của pháp nhân. Đại diện theo pháp luật
khắc phục được sự xung đột này. của pháp nhân luôn là cá nhân, không thể là
Ví dụ, ngày Công ty X và ông A ký Hợp pháp nhân lại đại diện theo pháp luật cho pháp
đồng ủy quyền tại Văn phòng công chứng Y, nhân. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không quy
theo Hợp đồng ủy quyền ông A được Công ty X định các trường hợp chấm dứt đại diện theo
ủy quyền quản lý khu nhà đất, trong thời hạn pháp luật của pháp nhân nên thực tế có nhiều
ủy quyền được quyền tìm đối tác, đàm phán để trường hợp đại diện theo pháp luật của pháp
chuyển nhượng nhà xưởng và khu đất tại xã nhân không thể hoặc không có khả năng đại
Hòa Thạch, Quốc Oai, Hà Nội. Thời hạn ủy diện nhưng về mặt pháp lý vẫn là đại diện, thực
quyền là 02 năm kể từ ngày 01/7/2018 đến hết trạng này gây ra tình trạng pháp nhân có đại
ngày 30/6/2019. Sau thời hạn 06 tháng kể từ diện nhưng không thực hiện được vai trò đại
ngày ký hợp đồng ủy quyền, ông A vẫn quản lý
diện. Tại Khoản 4 Điều 140 BLDS năm 2015
nhưng chưa tìm được đối tác để chuyển nhượng
chỉ đề cập đến một trường hợp duy nhất là
nên Công ty X muốn chấm dứt việc ủy quyền
chấm dứt đại diện theo pháp luật của pháp
với ông A, Công ty X đã thông báo cho ông A
nhân khi pháp nhân chấm dứt sự tồn tại. Vậy
về việc chấm dứt ủy quyền từ ngày 01/2/2019
thì khi đại diện duy nhất của pháp nhân chết
để ủy quyền cho người khác. Để chấm dứt việc
thì sao? Hoặc bị chấp hành hình phạt tù, vắng
ủy quyền, Công ty X tới Văn phòng công
mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy
chứng Y để được tư vấn về thủ tục chấm dứt
quyền cho người khác...
hợp đồng ủy quyền thì được Công chứng viên
tư vấn yêu cầu phải cả hai bên đến Văn phòng Trên đây là một vài trao đổi của tác giả về một
công chứng để ký văn bản hủy hợp đồng ủy số vướng mắc các quy định về pháp nhân mà thực
quyền. Công ty X giải thích rằng mình có tiễn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình áp
quyền đơn phương tuyên bố ý chí về việc chấm dụng. Hy vọng rằng lần pháp điển tiếp theo các
dứt ủy quyền theo Bộ luật dân sự. Tuy nhiên. vướng mắc này sẽ được giải quyết, việc sửa đổi
muốn thực hiện thủ tục chấm dứt thông qua bổ sung các quy định của pháp luật về pháp nhân
việc yêu cầu Văn phòng công chứng chứng sẽ tạo hành lang pháp lý cho sự tồn tại và phát triển
thực việc văn bản hủy hợp đồng ủy quyền của pháp nhân./.
nguon tai.lieu . vn