Xem mẫu
- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP SÂU VÀO AEC VÀ TPP
PGS.TS. Lê Thị Kim Nhung1
Tóm tắt
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc mở cửa hơn
nữa đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng là xu hướng phát triển tất yếu nhằm giúp
cho thương mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Chắc chắn điều này sẽ tạo
ra những thách thức mới, nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội cho hệ thống ngân hàng
vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn, hỗ trợ tối ưu cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đã ký kết các hiệp định FTA, AEC, TPP…
Việc thực hiện các cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã mở ra
viễn cảnh đầy cơ hội và thách thức mới cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
(NHTM). Bài viết tóm lược những nội dung cơ bản của các cam kết liên quan đến
lĩnh vực tài chính ngân hàng trong AEC và TPP, phân tích thực trạng hội nhập của
các NHTM Việt Nam, nhận diện những cơ hội mà các NHTM Việt Nam cần phải
đón đầu, cũng như những áp lực thách thức của hội nhập phải đối mặt, trên cơ sở
đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển bền vững.
Từ khóa: Hội nhập quốc tế, Tài chính ngân hàng, AEC, TPP
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đã ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA), gia
nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) - chính thức được hình thành vào cuối năm
2015, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thực hiện các cam kết đã ký,
Việt Nam đã và đang từng bước nới lỏng dần các quy định trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính và ngân hàng, theo đó, giới hạn tỷ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài tối
đa là 30% đối với lĩnh vực ngân hàng và 49% đối với lĩnh vực bảo hiểm và chứng
khoán. Tuy nhiên, theo cam kết về tự do hóa dịch vụ trong AEC, đến hết năm 2015,
các nước sẽ phải mở cửa tất cả các ngành dịch vụ và nhà đầu tư trong khối có thể sở
hữu tới 70% vốn tùy thuộc vào mức độ sẵn sàng của từng nước thành viên. Có thể thấy
1
Trường Đại học Thương mại. Email: kimnhungdhtm@yahoo.com.vn
253
- rằng, AEC là một bước tiến đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa hơn nữa đối với lĩnh vực tài
chính so với cam kết gia nhập WTO trước đây; còn TPP sẽ là một bước ngoặt đòi hỏi
Việt Nam và các nước tham gia phải cho phép các tập đoàn tài chính nước ngoài bán
dịch vụ của mình sang thị trường các quốc gia thành viên khác mà không cần phải
thành lập chi nhánh tại đó nếu các công ty trong nước tại thị trường này được phép
cung cấp các dịch vụ đó. Điều này đồng nghĩa với việc không cần phải có thủ tục cho
phép thành lập các ngân hàng con (có 100% vốn nước ngoài) như trong thỏa thuận
WTO trước đây. Thực thi cam kết TPP, thị trường tài chính Việt Nam sẽ xuất hiện
nhiều sản phẩm đa dạng của các ngân hàng nước ngoài mà không cần có cơ sở của họ
tại Việt Nam và người tiêu dùng Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn hơn bởi tính đa
dạng của sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường.
Bối cảnh mới này đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải chủ động tham gia vào
quá trình hội nhập, thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước và các
NHTM sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn không chỉ trên sân nhà mà còn trên phạm vi
toàn cầu. Bối cảnh mới cũng đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải chủ động điều chỉnh và
tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các tổ chức tín dụng, xây dựng khuôn khổ
chính sách thích hợp, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả và chống
đỡ kịp thời với các cú sốc có thể có từ bên ngoài. Để xây dựng được một hệ thống
ngân hàng uy tín, có năng lực cạnh tranh và hoạt động tín dụng an toàn với khả năng
huy động tốt mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư có hiệu quả, cần phải nhận diện
đúng những cơ hội và thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong cuộc chơi hội
nhập AEC và TPP.
2. Nội dung cam kết hội nhập lĩnh vực tài chính ngân hàng trong AEC và TPP
Mục tiêu tham gia hội nhập của các quốc gia trong các Hiệp định là khác nhau.
Trong khi các nước đã phát triển mong muốn hội nhập sâu trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng để hướng tới mục tiêu mở rộng thị trường và thị phần, thì các nước đang
phát triển mong muốn nâng cao khả năng thu hút và phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức kinh tế trong nước có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân
hàng có chất lượng cao hơn nhưng với chi phí thấp hơn.
Về mặt chính sách, nhằm khuyến khích hội nhập tài chính ngân hàng, chính phủ
các quốc gia trên thế giới thường quan tâm đến việc thực hiện mở cửa tiếp cận thị
trường, xây dựng môi trường chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước
cho phép các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước thâm nhập thị trường quốc tế.
254
- Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được thể hiện thông qua: (i) mức độ sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài trong các NHTM trong nước, (ii) thị phần dịch vụ ngân
hàng của các NHTM nước ngoài, (iii) phạm vi áp dụng các tiêu chuẩn, quy chế và quy
định theo thông lệ quốc tế, (iv) phạm vi dịch vụ ngân hàng cung cấp cho các hộ gia
đình và doanh nghiệp là người cư trú.
2.1. Nội dung cam kết hội nhập lĩnh vực tài chính ngân hàng trong AEC
AEC là một thị trường và không gian sản xuất thống nhất trong khu vực ASEAN
bao hàm sự tự do của năm yếu tố: lưu chuyển hàng hóa, lưu chuyển dịch vụ, đầu tư,
lưu chuyển vốn và dịch chuyển lao động có tay nghề. Theo đó, các quốc gia thành viên
cam kết thực hiện bốn khuôn khổ hội nhập: (1) Cam kết về thuận lợi hóa thương mại
dựa trên Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); (2) Cam kết về thương
mại dịch vụ dựa trên Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và thỏa ước thừa
nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ; (3) Đầu tư dựa trên Hiệp định đầu tư toàn
diện ASEAN (ACIA); (4) Hội nhập tài chính ASEAN.
Trong nội dung về cam kết hội nhập tài chính, các nước ASEAN đã xây dựng kế
hoạch tổng thể, chi tiết (AEC Blueprint) để hỗ trợ và nâng cao nhận thức cho các
NHTM và các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính trong khu vực nhằm đạt đến
bốn mục tiêu: (i) Tự do hóa tài chính; (ii) Tự do hóa tài khoản vốn;(iii) Phát triển và
hội nhập các thị trường vốn; (iv) Phát triển các dịch vụ thanh toán.
Giai đoạn 1 của hội nhập tài chính trong AEC đã được hoàn thành vào năm
2010, khuôn khổ cho các ngân hàng đạt chuẩn ASEAN - QABs đã được thành lập và
ghi nhận sự phát triển của thị trường trái phiếu ASEAN. Những ngân hàng đạt chuẩn
ASEAN sẽ có điều kiện được phép mở rộng hoạt động tại các nước thành viên khác và
được đối xử như ngân hàng trong nước của nước đó. Trong số các tiêu chí để được cấp
chứng nhận QABs có hai tiêu chí bắt buộc là mức vốn đủ lớn và quản lý tốt.
Hai mốc thời gian quan trọng được lựa chọn để xác định lộ trình hội nhập tài
chính ASEAN cho các giai đoạn tiếp theo là 2015 và 2020. Cụ thể, hết năm 2015, cơ
bản ASEAN sẽ dỡ bỏ các giới hạn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tự do hóa đa số
các dòng lưu chuyển vốn, các sản phẩm dịch vụ tài chính, tiêu chuẩn hóa và phát triển
cơ sở hạ tầng thanh toán bù trừ giữa các thành viên. Đến hết năm 2020, ASEAN chính
thức hội nhập tài chính khu vực, các ngân hàng được tự do gia nhập các thị trường, tất
cả các dòng vốn được tự do lưu chuyển, thị trường chứng khoán hội nhập và hoàn
thiện hệ thống thanh toán bù trừ ASEAN.
255
- Bảng 1. Lộ trình hội nhập tài chính ASEAN
Nội dung
Giai đoạn 2: đến 2015 Giai đoạn 3: đến 2020
hội nhập
- Tự do hóa các quy định về việc gia nhập giới - Tự do hóa các quy định
hạn đối với các ngân hàng đạt chuẩn QABs. về việc gia nhập và giới
hạn về các ngân hàng
- Dỡ bỏ các hạn chế đối với phân ngành bảo
không đạt chuẩn QABs.
Tự do hóa hiểm, ngân hàng và thị trường vốn theo cam
dịch vụ tài kết của các nước thành viên trong phụ lục - Đến năm 2017, thống
chính (FSL) 1(AEC Blueprint 2008). nhất về danh sách những
phân ngành “linh hoạt thỏa
thuận trước” có thể được
duy trì bởi mỗi quốc gia
thanh viên đến năm 2020.
Tự do hóa tài Tự do hóa các dòng lưu chuyển danh mục Tự do hóa các dòng lưu
khoản vốn đầu tư chuyển (vay/ cho vay).
(CAL)
Tự do hóa dịch vụ môi giới và các sản phẩm Hội nhập giao dịch chứng
tài chính. khoán ASEAN.
- Đạt được sự hài hòa hơn trong tiêu chuẩn thị
trường vốn ASEAN trong các lĩnh vực cung
cấp các quy định đối với chứng khoán nợ,
công bố yêu cầu và quy tắc phân phối.
Phát triển thị - Tạo điều kiện thống nhất thừa nhận lẫn nhau
trường vốn hoặc thống nhất công nhận trình độ giáo dục
(CMD) và kinh nghiệm của các chuyên gia thị trường
tài chính.
- Đạt được sự linh hoạt hơn trong ngôn ngữ và
luật pháp đối với việc phát hành trái phiếu.
- Tăng cường giữ lại cấu trúc thuế (nếu có
thể), để thúc đẩy việc mở rộng cơ sở nhà đầu
tư trong phát hành nợ ASEAN.
Hệ thống Phát triển tiêu chuẩn thanh toán và cơ sở hạ Hội nhập hệ thống thanh
thanh toán tầng thanh toán. toán ASEAN.
(PSS)
Nguồn: NHNN Việt Nam
256
- Trong khuôn khổ AEC, các nước thành viên cũng phải tạo ra một sân chơi bình
đẳng cho ngân hàng các nước thành viên khác hoạt động trên lãnh thổ của mình bằng
cách xóa bỏ những khác biệt pháp lý mang tính phân biệt đối xử giữa các ngân hàng có
quốc tịch khác nhau. Những biện pháp này kỳ vọng sẽ thúc đẩy sự hợp nhất và tạo ra
những ngân hàng khu vực lớn về quy mô, phạm vi hoạt động và hiệu quả cạnh tranh
trên tầm quốc tế khi bước vào sân chơi mới rộng hơn mang tên TPP.
2.2. Nội dung cam kết hội nhập tài chính ngân hàng trong TPP
Nội dung cam kết về dịch vụ tài chính nằm trong chương thứ 10 trong tổng số 30
chương của Hiệp định. Theo đó, các nội dung trong TPP cũng tương tự như các cam
kết trong WTO (các quy tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, mở cửa thị trường và
một số điều khoản của Chương Đầu tư). Điểm khác biệt của TPP là việc nhấn mạnh
khả năng quản lý đối với các tổ chức và thị trường tài chính, các biện pháp khẩn cấp
trong trường hợp khủng hoảng, những biện pháp thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự
toàn vẹn của hệ thống tài chính bao gồm các ngoại lệ thận trọng và các ngoại lệ về các
biện pháp không phân biệt đối xử nhằm theo đuổi chính sách tiền tệ hoặc chính sách cụ
thể khác. Như vậy, cam kết hội nhập lĩnh vực tài chính trong TPP mặc dù cung cấp
nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng các
nước trong TPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính, cũng như
thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Theo nội dung kết
thúc đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một
nước TPP có thể cung cấp dịch vụ tài chính tại thị trường của một nước TPP khác nếu
các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó.
Các nước thành viên TPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số
quy tắc trong hai phụ lục đính kèm TPP và phù hợp với điều kiện của từng nước. Đó
là: (i) các biện pháp hiện hành quy định, bên tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt
thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng như tuân thủ thỏa thuận tự
do hóa trong các hoạt động sau này; (ii) các biện pháp và chính sách quy định bên
tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.
Các nước TPP cũng đặt ra các nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan
trọng của các quy trình thủ tục pháp lý nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch
vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục
tiêu này. Ngoài ra, TPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quản lý danh mục
đầu tư, các dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục
đích xử lý dữ liệu.
257
- 3. Thực trạng mở cửa hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
3.1. Thực trạng cải cách môi trường pháp lý
Thực hiện cam kết hội nhập, Chính phủ Việt Nam đã có những cải cách môi
trường pháp lý nhằm mở cửa thị trường tài chính. Các quy định pháp luật liên quan
đến hội nhập lĩnh vực tài chính ngân hàng gồm:
- Các quy định về mức độ sở hữu vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các
NHTM trong nước, được thể hiện ở Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán; Nghị định 60/2015/NĐ-CP ngày
26/6/2015 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP. Theo đó,
room về tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các công ty chứng khoán sẽ được nới hết cỡ là
100% thay vì 49% như trước đó, còn đối với các ngân hàng là 30% với lộ trình thận trọng.
- Các quy định về thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thể hiện ở
Nghị định 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài và văn phòng đại diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; Thông
tư 03/2007/TT-NHNN ngày 5/6/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
22/2006/NĐ-CP. Theo đó, để thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, ngân hàng
100% vốn nước ngoài thì ngân hàng nước ngoài phải có tổng tài sản tối thiểu tương
đương 10 tỷ USD vào cuối năm tài chính trước năm xin cấp giấy phép. Điều kiện về
năng lực tài chính của ngân hàng mẹ nước ngoài cho việc mở một chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam còn bị đòi hỏi cao hơn gấp đôi, tức là ngân hàng mẹ phải có
tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ USD vào năm tài chính trước năm xin cấp
giấy phép. Tất cả các điều kiện về thành lập ngân hàng FDI trong cam kết WTO của
Việt Nam đã được đưa vào nội dung nghị định 22/2006/NĐ-CP.
Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài được
hưởng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đầy đủ, tức là các ngân hàng này có
quyền thiết lập và vận hành các máy rút tiền tự động, phát hành thẻ tín dụng tại Việt
Nam như các NHTM Việt Nam. Như vậy, cho đến nay, Việt Nam đã có các quy định
và văn bản hướng dẫn cụ thể đối với lĩnh vực ngân hàng theo cam kết WTO. Tuy
nhiên, với những thay đổi trong AEC và bước tiến xa hơn trong việc mở cửa mạnh
theo TPP về tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới là chưa có văn bản quy định.
258
- 3.2. Thực trạng hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Từ sau khi gia nhập WTO và thực hiện lộ trình mở cửa thị trường tài chính ngân
hàng Việt Nam, số lượng ngân hàng nước ngoài và chi nhánh nước ngoài không ngừng
gia tăng từ 31 (2006) đến 53 (2013) và 50 (31/12/2015). Các NHTM nước ngoài bắt
đầu đặt chân vào thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức để khai thác một thị trường
đầy tiềm năng, sức ép cạnh tranh vì vậy cũng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Cùng với
sự tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế, hệ thống NHTM
Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn với chất lượng tài sản xấu, nguy cơ đổ vỡ có thể
xảy ra bất kỳ lúc nào. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 ban hành Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
giai đoạn 2011 - 2015”, theo đó khuyến khích sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng
(TCTD) và thực hiện các giải pháp để lành mạnh hóa tài chính và hoạt động của hệ
thống, đảm bảo sự an toàn và phát triển bền vững hơn. Sau 4 năm triển khai đề án này,
hệ thống các TCTD đã giảm mạnh về số lượng, theo đó, có 17 TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đã giảm do thực hiện sáp nhập, hợp nhất hoặc rút giấy phép hoạt
động, một số TCTD chuyển đổi mô hình từ ngân hàng thương mại cổ phần sang ngân
hàng trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đến
nay, hệ thống NHTM ở Việt Nam gồm: 4 NHTM Nhà nước, 31 NHTM cổ phần (bao
gồm cả 3 NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ), 5 NHTM 100%
vốn nước ngoài, 3 ngân hàng liên doanh và 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Sự
biến động số lượng các NHTM hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam giai đoạn 2006 -
2015 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2. Số lượng NHTM ở Việt Nam
Loại hình Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm
STT
NHTM 2006 2007 2011 2012 2013 2014 2015
1 NHTM Nhà 5 5 3 1 1 1 4
nước
2 NHTM cổ 32 34 39 38 38 37 31
phần
3 NH 100% vốn 0 0 5 5 5 5 5
nước ngoài
4 NH Liên doanh 3 5 5 4 4 4 3
5 Chi nhánh NH 31 41 53 55 53 53 50
nước ngoài
Nguồn: website NHNN Việt Nam [9]
259
- Việc mở cửa thị trường trong nước đã làm gia tăng tỷ lệ sở hữu của nước ngoài
trong các NHTM Việt Nam. Với quy mô mức trần tỷ lệ sở hữu nước ngoài cho phép là
30% (Nghị định 60/2015/NĐ-CP), các NHTM Việt Nam đã chủ động, tích cực tìm
kiếm đối tác chiến lược và chào bán cổ phiếu cho các cổ đông là tổ chức lớn nước
ngoài, nâng dần tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Trong khối các NHTM nhà nước cổ phần
hóa, Vietinbank là ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao nhất (từ khoảng 12% năm
2012 lên đến 28% cuối năm 2014), tiếp đến là Vietcombank (từ 5% năm 2012 lên đến
20% cuối năm 2014). Trong khối các NHTM cổ phần không có vốn nhà nước, tỷ lệ sở
hữu nước ngoài có xu hướng gia tăng ở các ngân hàng có quy mô lớn và trung bình
như ACB, EIB, TCB, VIB, VPB với khoảng từ 20% - 30%. Các ngân hàng có tỷ lệ sở
hữu nước ngoài tăng mạnh trong giai đoạn tái cơ cấu (2012 - 2014) lên đến 30% là
ACB, ABB, SCB và SHB, điều này khẳng định tác động tích cực của việc gia tăng tỷ
lệ sở hữu nước ngoài, đã giúp các ngân hàng này thoát khỏi danh sách các ngân hàng
yếu kém.
4. Cơ hội và thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong bối cảnh
gia nhập AEC và TPP
4.1. Cơ hội
Quá trình hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn,
công nghệ, kinh nghiệm, trình độ quản lý của một số NHTM lớn và có uy tín trên
trường quốc tế. Mặt khác, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp
yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, tự thân các NHTM Việt Nam
phải chủ động thực hiện cơ cấu lại hoạt động và tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên
nghiệp hơn, tiếp cận các chuẩn mực chung của quốc tế. Các NHTM nước ngoài tham
gia vào thị trường tài chính ngân hàng trong nước sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh với
các ngân hàng nội, làm gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM.
Có thể chỉ ra những cơ hội như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là cơ hội tăng năng lực tài chính của các NHTM Việt
Nam. Thực tế quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD theo đề án của Chính phủ thời
gian qua cho thấy, vốn điều lệ của các NHTM đã tăng lên với tốc độ tăng trưởng khá
tốt. Đến tháng 8/2015 vốn điều lệ của Khối NHTM nhà nước đạt 144.999 tỷ đồng,
tăng 0,54% so với 31/12/2014; khối NHTM cổ phần đạt 186.147 tỷ đồng tăng 2,97%
so với 31/12/2014. Trong hệ thống có 10 NHTM cổ phần có vốn điều lệ từ 9.000 tỷ
đồng đến trên 40.000 tỷ đồng, trong đó Vietinbank có vốn điều lệ cao nhất (40.234 tỷ
đồng), tiếp theo là BIDV (31.112 tỷ đồng), Agribank (29.605 tỷ đồng), Vietcombank
260
- (26.650 tỷ đồng), Sacombank, MB, Eximbank, SCB, SHB, ACB,… Giá trị tổng tài sản
của các NHTM cũng tăng mạnh từ khi các ngân hàng tham gia sâu vào quá trình hội
nhập. Xem xét giai đoạn 2007 - 2014 cho thấy, quy mô tổng tài sản của các NHTM
Việt Nam đã tăng từ 1.069 nghìn tỷ đồng (2007) lên 6.515 nghìn tỷ đồng (2014), gấp
6,4 lần và đến cuối tháng 8/2015 đạt khoảng 6.753 nghìn tỷ đồng [9].
Cam kết hội nhập của Việt Nam cho phép các Ngân hàng nước ngoài (NHNNg)
được đầu tư mua cổ phần của các NHTM trong nước. Đây chính là cơ hội để các
NHTM trong nước tiếp cận nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu bán cho
đối tác chiến lược là các NHNNg. Hiện nay có rất nhiều NHTM cổ phần của Việt Nam
có cổ đông ngoại góp vốn với tỷ lệ sở hữu lên tới 20 – 30% như: Vietinbank có 2 cổ
đông chiến lược nước ngoài là công ty tài chính quốc tế (IFC) sở hữu 10% cổ phần
(~173 triệu USD) và ngân hàng Tokyo Mitsubishi UFJ sở hữu 20% cổ phần (~347
triệu USD); Vietcombank có cổ đông chiến lược là ngân hàng Mizuho sở hữu 15% cổ
phần (~128,1 triệu USD); VIB có cổ đông chiến lược là Commonwealth bank of
Australia sở hữu 15% cổ phần (~600 tỷ NVD);… Đây là một lượng vốn rất lớn làm
tăng tiềm lực tài chính của các ngân hàng nội. Tiềm lực tài chính mạnh là điều kiện
tiên quyết giúp cho các NHTM Việt Nam có thể đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng
mạng lưới hoạt động, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ đó nâng cao
năng lực quản trị điều hành đáp ứng chuẩn quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế là cơ hội được chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản
lý ngân hàng hiện đại. Tại hầu hết các NHTM cổ phần có tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên
5% đều có các chuyên gia nước ngoài đảm trách các vị trí quan trọng trong bộ máy
quản trị điều hành như Techcombank, VIB,… Được làm việc với các chuyên gia quản
lý cấp cao trong ngân hàng là cơ hội để chuyển giao công nghệ, kỹ năng, trình độ quản
lý tốt đội ngũ cán bộ quản lý Việt Nam. Mặt khác, có nhiều NHTM trong nước đã thuê
các chuyên gia nước ngoài cung cấp các gói thầu tư vấn về xây dựng chiến lược, lập kế
hoạch kinh doanh, quản trị rủi ro, quản trị nhân sự, đánh giá chất lượng dịch vụ,… Có
thể khẳng định, đây là bước chủ động của các NHTM Việt Nam trong việc đón đầu các
cơ hội kinh doanh, đi tìm tiếng nói chung với các nhà đầu tư nước ngoài, các đối tác
nước ngoài trên con đường hợp tác, cạnh tranh để phát triển. Hiện nay, hàng loạt
NHTM Việt Nam đã áp dụng hệ thống phần mềm công nghệ hiện đại để quản trị ngân
hàng như: hệ thống core - banking, hệ thống quản trị khách hàng CRM, chất lượng và
hiệu quả hoạt động vì vậy được nâng lên rõ nét.
261
- Thứ ba, hội nhập quốc tế là cơ hội để các NHTM Việt Nam nâng cao khả năng
quản trị ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao tính minh bạch, công khai. Thời
gian qua, dưới tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, các NHTM trong nước
đứng trước áp lực phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện về tổ chức và hoạt động để có thể
khẳng định vị thế và đứng vững trên thị trường. Nhiều NHTM trong nước đã chú trọng
tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro, tiệm cận các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện
đại của quốc tế (Basel II, III). Điển hình như Vietinbank, ngay sau khi IFC trở thành cổ
đông chiến lược (2010), đã ký kết và triển khai tích cực thỏa thuận hợp tác kỹ thuật
theo 4 cấu phần, trong đó hỗ trợ về công tác quản trị rủi ro là một cấu phần quan trọng
nhằm xác lập các điều kiện để áp dụng các chuẩn mực của Basel. Có thể khẳng định,
hội nhập quốc tế đã giúp các NHTM có cơ hội tiếp cận kinh nghiệm, kiến thức của các
ngân hàng lớn, các tổ chức tài chính lớn trên thế giới trong công tác quản trị rủi ro nói
riêng và quản trị điều hành nói chung. Mặt khác, với sự tham gia của các cổ đông
chiến lược nước ngoài, buộc các NHTM cổ phần phải công khai, minh bạch hóa thông
tin, các hoạt động quản trị, kế toán, tài chính phải chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế.
Thực tế cho thấy, hàng loạt các NHTM cổ phần Việt Nam khi niêm yết trên thị trường
chứng khoán đã phải chuyển hệ thống kế toán sang chuẩn mực quốc tế (IFRS) bên
cạnh hệ thống kế toán theo chuẩn mực Việt Nam (VAS). Yêu cầu này là tất yếu khi
các NHTM Việt Nam có nhu cầu niêm yết trên thị trường quốc tế. Một số NHTM lớn
đã bắt đầu thuê các tổ chức định giá, xếp hạng tín nhiệm quốc tế để định mức tín
nhiệm như BIDV, VCB, Vietinbank. Việc công khai xếp hạng bởi các tổ chức quốc tế
sẽ mở ra cơ hội cho các NHTM lớn của Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế.
Thứ tư, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội cho các NHTM Việt Nam mở rộng, phát
triển thị trường ra nước ngoài. Theo nội dung đã kết thúc đàm phán trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước TPP có thể cung cấp dịch vụ
tài chính tại thị trường của một nước TPP khác nếu các công ty trong nước hoạt động
tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Chính vì vậy, TPP đã mở ra cơ hội
tiếp cận thị trường nước ngoài cho các NHTM Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong giai
đoạn 2010 - 2015, một số NHTM lớn đã tiên phong trong việc xuất khẩu dịch vụ tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán ra thị trường nước ngoài, điển hình như
BIDV, VCB, Vietinbank. Các NHTM này đã có sự chuẩn bị, chủ động đón đầu khá tốt
cơ hội này: từ việc nghiên cứu, thăm dò thị trường ở các nước phát triển (Mỹ, Đức,
Nga) đến việc thâm nhập thị trường các nước trong khu vực ASEAN như Lào,
Campuchia, Myanmar,… mở các văn phòng đại diện, chi nhánh. Đến nay, có khoảng
hơn 20 chi nhánh, văn phòng đại diện của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài.
262
- 4.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội đến từ hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam
còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại trong nền kinh tế cũng như nội tại của
từng ngân hàng, thể chế của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với
yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập là những thách thức lớn của các NHTM Việt
Nam trong quá trình hội nhập.
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh trên thị trường ngân hàng trong nước ngày càng
gay gắt do sự hiện diện của các NHNNg. Tuy hiện nay, các ngân hàng liên doanh,
NHNNg mới chỉ chiếm thị phần nhỏ trên thị trường Việt Nam (10-15% thị phần tín
dụng, 5 - 7% thị phần huy động vốn [9]) nhưng với hệ thống công nghệ hiện đại và
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, các NHNNg đang có lợi thế cạnh tranh
cao hơn các NHTM trong nước trên các mặt hoạt động: huy động vốn, tín dụng, dịch
vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. Khi các cam kết hội nhập WTO, AEC,
TPP bắt đầu có hiệu lực, các NHNNg được quyền huy động vốn từ dân cư, cung cấp
dịch vụ cho vay cá nhân, tổ chức là người Việt Nam, thị phần này là mảnh đất màu mỡ
cho các NHNNg khai thác với thế mạnh về chất lượng dịch vụ vượt trội hơn các
NHTM trong nước. Một thực tế không thể phủ nhận là các NHNN đang dần có “sức
hấp dẫn” cao hơn các NHTM trong nước khi người dân Việt Nam ngày càng có trình
độ dân trí cao hơn, thu nhập cao hơn, họ sẽ hướng đến các nhà cung cấp dịch vụ tốt
hơn. Phân khúc thị trường khách hàng có thu nhập cao và trung bình, khách hàng là
tầng lớp trí thức sẽ dần dịch chuyển sang các NHNNg, nguy cơ bị thua ngay trên “sân
nhà” là một thách thức hiện hữu của các NHTM Việt Nam. Thách thức này đòi hỏi các
NHTM Việt Nam phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư
công nghệ hiện đại.
Thứ hai, hội nhập quốc tế tất yếu sẽ dẫn tới sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất
lượng cao từ các NHTM trong nước sang các NHNNg tại Việt Nam và thậm chí là
trong khu vực. Do đặc trưng nghề nghiệp, đội ngũ nhân lực ngành tài chính ngân hàng
phải là nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ chuyên môn giỏi, kỹ năng ngoại
ngữ và tin học tốt, khai thác và sử dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ
cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Trong số đó, các chuyên gia tài chính là
những người có tầm nhìn chiến lược, có hành động quyết đoán và nguyên tắc như một
người chỉ huy, đặc biệt là khi phải đối phó với những diễn biến phức tạp trong kinh
doanh. Nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là yếu tố then chốt để đáp ứng yêu cầu
khắt khe của hội nhập, một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự phát triển
263
- lành mạnh, hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Đây là
một thách thức rất lớn của các NHTM Việt Nam hiện nay, bởi thực tế cho thấy, ngành tài
chính ngân hàng của Việt Nam đang khan hiếm nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng
cao, đặc biệt là các chuyên gia tài chính có bằng cấp quốc tế. Mặt khác, các NHTM Việt
Nam còn phải đối mặt với vấn đề chảy máu chất xám trong quá trình cạnh tranh thu hút
nhân tài. Khu vực tài chính ngân hàng luôn diễn ra chu trình di chuyển lao động khá khắc
nghiệt và trong chu trình đó tất yếu sẽ diễn ra việc dịch chuyển nhân lực chất lượng cao từ
các NHTM trong nước sang NHNNg tại Việt Nam và sang các nước trong khu vực nếu
không có chính sách và biện pháp giữ chân nhân tài.
Thứ ba, tiềm lực tài chính khiêm tốn, chất lượng tài sản thấp và chưa hợp lý,
công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách xa so với khu vực và thế giới. Mặc dù vốn
điều lệ của các NHTM trong nước đã tăng trưởng gấp nhiều lần so với trước khi hội
nhập (hiện nay trong khoảng 133 triệu USD đến 1,8 tỷ USD), song mức vốn điều lệ
trung bình của các NHTM Việt Nam (kể cả các NHTM có vốn của Nhà nước) vẫn
không thể so sánh với các ngân hàng trong khu vực với số vốn điều lệ hàng tỷ USD
(Ngân hàng Mitsubishi UFJ có số vốn lên đến 1.770 tỷ USD, hay United Overseas
Bank của Singapore có số vốn lên tới 13,4 tỷ SGD). Đây là một bất lợi lớn của các
NHTM Việt Nam xét về tỷ lệ an toàn vốn. Theo thống kê của NHNN Việt Nam, tính
đến hết tháng 8/2015, tỷ lệ an toàn vốn của các Ngân hàng liên doanh và NHNNg tại
Việt Nam lên đến 34,45%, trong khi tỷ lệ này ở các NHTM Nhà nước là 9,29% và ở
khối các NHTM cổ phần là 13,18% [9]. Cơ cấu tài sản chưa hợp lý và chất lượng tài
sản thấp (thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu cao) của các NHTM Việt Nam là một thách thức trong
việc đảm bảo thanh khoản và an toàn hoạt động ngân hàng. Giai đoạn 2011-2015,
chúng ta đang quyết liệt thực hiện tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các NHTM trong
nước, tuy nhiên các biện pháp xử lý mới chỉ mang tính chất kỹ thuật, nợ xấu xử lý
chậm và chưa triệt để, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán, các ngân hàng của Việt Nam đang
có khoảng cách khá xa so với yêu cầu của hội nhập. Mặc dù các NHTM trong nước
đang nỗ lực từng bước nâng cấp hệ thống công nghệ thông qua các dự án hiện đại hóa,
nhưng do năng lực tài chính còn hạn chế cho nên chưa thể đáp ứng yêu cầu trong
khoảng thời gian ngắn. Thời gian qua, NHNN Việt Nam đã yêu cầu các NHTM trong
nước rà soát năng lực quản trị công nghệ so với tiêu chuẩn Basel II thông qua công cụ
chẩn đoán khoảng cách dữ liệu - Data Gap. Kết quả là, các NHTM trong nước mới chỉ
đáp ứng được khoảng 40 - 60% yêu cầu theo tiêu chuẩn Basel II. Điều đó cho thấy,
264
- quản trị công nghệ đang là một thách thức lớn trước sức ép hội nhập quốc tế của hệ
thống NHTM Việt Nam.
Thứ tư, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng trong quá trình hội nhập tất yếu
sẽ dẫn đến nguy cơ bị thôn tính của các NHTM trong nước và hệ lụy nảy sinh từ vấn
đề sở hữu chéo. Với thế mạnh về tài chính, công nghệ và nhân lực, NHNNg thường
xâm nhập và phát triển thị trường mới bằng cách mua cổ phần của các NHTM Việt
Nam và trở thành cổ đông chiến lược, tìm cách thâu tóm rồi thôn tính các ngân hàng
này, hoặc thực hiện các thương vụ M&A ngân hàng. Đây là con đường giúp các
NHNNg đặt chân vào thị trường tài chính Việt Nam một cách nhanh chóng hơn. Trong
trường hợp này, nếu các ngân hàng của Việt Nam không có “sự tỉnh táo” trong hoạt
động quản trị và kiểm soát lượng vốn thì khả năng bị thâu tóm là khó tránh khỏi. Mặt
khác, hội nhập với các cam kết nới room cho nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường tài
chính Việt Nam sẽ tạo ra động lực và cơ hội gia tăng các hoạt động đầu tư chéo vào
nhau giữa các NHTM với nhau hoặc giữa NHTM với các tập đoàn kinh tế lớn, dẫn tới
vấn đề sở hữu cổ phần chéo lẫn nhau dưới nhiều hình thức. Đây là một thách thức lớn
hiện nay, là rào cản lớn nhất thao túng và ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng
trong quá trình xử lý, tái cơ cấu.
5. Một số kiến nghị
Trước những thời cơ và thách thức mà bối cảnh hội nhập quốc tế mang lại, các
NHTM Việt Nam cần phải khắc phục những thách thức từ chính nội tại, tiếp tục tái cơ
cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng phạm vi hoạt động. Để đạt mục tiêu đó,
các NHTM Việt Nam cần tập trung cho một số định hướng sau:
Thứ nhất, phải nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu. Các NHTM
Việt Nam cần phải xây dựng lộ trình và thực hiện việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu,
cải thiện hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel II. Tăng vốn điều lệ là điều kiện để
đạt được sự phát triển nhờ quy mô, đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng và
đủ tiềm lực tài chính lớn để có thể ứng phó với những bất ổn của môi trường kinh
doanh quốc tế.
Thứ hai, phải nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro.
Trong thời gian tới, các NHTM Việt Nam cần tập trung xử lý căn bản nợ xấu, chú
trong nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hóa tình hình tài chính, tạo tiền đề cho
giai đoạn phát triển mới. Các NHTM cần xây dựng, cập nhật chiến lược và chính sách
quản trị rủi ro phù hợp với các quy định mới của NHNN và ngày càng phù hợp hơn
với các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế. Rà soát các chính sách, thực hiện áp dụng
265
- các chuẩn mực, tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động kinh doanh và xây dựng lộ trình
đáp ứng tiêu chuẩn chung của khu vực.
Thứ ba, các NHTM Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với các NHTM, các định
chế tài chính có uy tín trong khu vực, đồng thời có hoạt động xúc tiến mở rộng kinh
doanh tại thị trường nước ngoài.
Thứ tư, các NHTM Việt Nam cần chú trọng xây dựng và thực hiện chiến lược
phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển. Để đáp ứng tốt yêu cầu cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập, cần phải có một đội ngũ nhân sự ổn định, đảm bảo cả
về chất và lượng, nhất là nhân sự quản lý. Trong bối cảnh cạnh tranh về nguồn nhân
lực ngày càng gay gắt và đứng trước tình trạng “chảy máu chất xám”, các NHTM Việt
Nam cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau: (1) cơ cấu lại, sắp xếp, bố trí cán bộ có
năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tế phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh
trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời trẻ hóa đội ngũ lao động qua tuyển dụng; (2)
nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý sử dụng nhân lực có
hiệu quả, đánh giá nhân viên gắn liền với tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, lấy hiệu quả
công việc là thước đo chủ yếu, coi trọng sử dụng nhân tài và khuyến khích tài năng
nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển; (3) chú
trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực một cách toàn diện, từng bước nâng
cao chất lượng nhân lực một cách đồng đều và vững chắc theo hướng vừa chuyên sâu,
vừa tổng hợp, có khả năng cạnh tranh cao, luôn hướng tới khách hàng; (4) có chính
sách thu hút nhân tài thông qua chế độ đãi ngộ.
6. Kết luận
Như vậy, có thể khẳng định, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của mọi nền
kinh tế, mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của các quốc gia nói chung và của ngân
hàng nói riêng, song cũng đặt ra rất nhiều thách thức, áp lực buộc các quốc gia, tổ
chức, ngân hàng phải đối mặt. Vấn đề đặt ra là, việc trang bị một kiến thức nhất định
về hội nhập, nhận diện một cách rõ nét những cơ hội và thách thức của hội nhập, sẽ
giúp các nhà quản lý ngân hàng, các cơ quan hoạch định chính sách chủ động, cẩn
trọng và tự tin đối đầu với thách thức và đón nhận cơ hội, với mục tiêu cuối cùng là
nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trên thị trường quốc tế.
266
- Tài liệu tham khảo
1. ADB, (2010), Methodology for Impact Assessment of Free trade Agreement.
2. Bao Tran, Bernice Ong, Scott Weldon,(2015), Vietnam Banking Industry
Report, Publish by Duxton Asset Managenment. 23/1/2015.
3. Morgan Standley, (2015), ASEAN financials: 2015 Outlook.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2015), Báo cáo hội nhập tài chính ngân
hàng ASEAN.
5. Lê Thị Thùy Vân và nhóm nghiên cứu, (2015), Đánh giá tác động của các
Hiệp định thương mại tự do, Tạp chí kinh tế tài chính Việt Nam, số 2 – 2015.
6. Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú, (2014), Hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam - kết quả sau 2 năm tái cấu trúc, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
số tháng 3/2014.
7. Phạm Huy Hùng, (2015), Vietinbank sau 6 năm gia nhập WTO – những vấn
đề đặt ra
8. https://ustr.gov/about-us/policy-office/press-ofice/press-
releases/2015/otober/summary-trans-pacific-partnership.
9. Website của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: htpp://www.sbv.gov.vn.
267
nguon tai.lieu . vn