Xem mẫu

  1. Đề bài: Bình luận cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm trong Hạnh   phúc của một tang gia Bài làm Tiếng nói căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức bất công, tàn   bạo, thối nát, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “khốn nạn”, “chó đểu” và ông khao  khát thay đổi nó từng ngày, từng giờ  trong “Số  đỏ” nói chung và “Hạnh phúc một tang  gia” nói riêng cứ  xoáy sâu vào tâm trí độc giả. Một “thế  thái nhân tình” được xây dựng  trên hai điều, sự tàn nhẫn và sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu  văn tưởng chừng ngược đời mà lại có lý: “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung  sướng lắm”. Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ cố Hồng là cả một   xã hội phong kiến tư  sản thối nát. Khi sinh ra, lớn lên trưởng thành bước vào đời, con   người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không   có gì hơn ngoài mong muốn được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang  tồn tại và đang sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi. “suối vàng”, cái chết của cụ tổ lại mang   lại bao nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ  Hồng. Tình  cảm ngược đời ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối nát, bẩn thỉu, câu   chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã mang lại cho tác phẩm Vũ   Trọng Phụng. Ngay  ở  tiêu đề  của đoạn trích, tác giả  đã có ý nhấn mạnh cái hạnh phúc  bên bờ của một con người vừa từ trần thế đến nơi tận cùng của số phận. Hạnh phúc lại   đi liền với tang gia và tang gia tạo nên hạnh phúc. Nếu chỉ đọc tiêu đề, độc giả sẽ không  hoàn toàn tin tưởng vào hai khái niệm trái ngược đó; nhưng khi vào sâu thế  giới của tác  phẩm, độc giả  nhận thấy rằng: tình cảnh ấy tồn tại trong nhà cụ  cố  Hồng rất tự  nhiên,   hợp lý. Nhìn nét mặt, hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người đọc cảm nhận cái  hạnh phúc mà họ được nhận và đã chờ rất lâu để cụ cố mất đi. Khi tắt thở, không biết cụ  tổ  có nhận thấy cái chết  ấy đã làm cho nhiều người được sung sướng lắm. Niềm hạnh   phúc được tràn ra qua cái nhắm mắt mơ  màng của cụ  cố  Hồng khi nghĩ đến cái lúc cụ  mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để  cho thiên hạ  phải chỉ  trỏ:Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!
  2. Cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma như thế, một cái gậy  như thế…”, viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà lạ lùng và cay đắng quá. Người   ta đến đưa thi thể của cụ cố xuống nơi suối vàng, chứ đâu phải ngắm nhìn “con giai” cụ  đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ  ấy đã   phản ánh đúng tâm trạng của cụ Hồng trong cái đám ma “rộn ràng”, “huyên náo”. Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy “không ngờ  rằng giá trị  đôi sừng hươu vô hình trên  đầu ông ta mà lại to đến như  thế? Ông hạnh phúc khi được nghe thấy cụ  cố  Hồng nói  nhỏ  vào tai là sẽ  chia cho con gái và rể  thêm một số  tiền là vài nghìn đồng. Dường như  đến đưa ma cụ  cố, ông Phán mọc sừng lại được đón nhận số  tiền lớn  ấy đến bất ngờ.  Dù sao “cái chết kia” cũng mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với   cái sừng mà Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cùng đỏ để ông cám ơn hắn.  Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo,thằng bồi tiêm đã đêm được một nghìn  tám trăm bảy hai, cậu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi của cụ cố Hồng thì ông Phán mọc  sừng đã kịp trù tính với Xuẩn công cuộc doanh thương… và điều trước tiên là trả nốt năm  đồng cho Xuân. Ngay trong giờ  phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc  ấy mà  người ta vẫn không quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó   say đắm và đam mê hơn. “Trước những cặp mắt cửa một bầy con chí hiếu chỉ  nóng ruột đem chôn cho chóng cái   xác chết của cụ tổ”, thì cụ  cố Hồng lại nhắm nghiền mắt kêu khổ  lắm. Sao mà bộ  mặt  giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với đám ma là để trưng bày trang phục   sáng tạo của mình cho mọi người chiêm ngưỡng”. “Cậu Tú Tân thì cứ  điên người lên vì   cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà cậu mãi không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt  cả   ruột   vì   mãi   không   được   mặc   những   đồ   xô   gai   tân   ,   cái   mũ   mấn   trắng   viền   đen  “dernieres cieations”, Những cái rất ăn với nhau mà tiệm  u hóa một khi đã lăng xê ra thì có   thể  bán cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ  chết cũng được hưởng chút ít hạnh   phúc  ở  đời”. Vậy là, họ  đi đám ma dường như là đi dự  đám cưới. Họ  chỉ  biết thỏa mãn   cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi lòng không hề để ý đến ai đã khám cho cụ  tổ  khi cụ  bị  bệnh và sau khi qua đời. Đến cả  đứa cháu gái Văn Minh giàu sang của cụ  cũng hờ hững, tự nhiên phơi bày những bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục  NG Y THƠ của Tuyết đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chi làm cho họ hạnh phúc, sung  
  3. sướng mà thôi. Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Minđơ và Mintoa cũng sung sướng cực điểm khi   được cái đám ma “to lớn” này thuê giữ gìn trật tự. “Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả”.   Chỉ trừ có một mình Tuyết, cô không phải buồn vì cái chết của cụ tổ mà vì cô không gặp   được “người tình Xuân Tóc Đỏ”. Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, “có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng cho đến lốc bốc   xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu   Tú Tân chỉ huy”, lộn xộn, lao xao và huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các   nhà tài tử thi nhau chụp  ảnh. “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm   trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…”, câu văn  nghe sao mà chua chát và cay đắng đến vậy. Dường như  trong cái xã hội phức tạp  ấy   không còn tồn tại tình người.’Họ  đối xử  với nhau, đến với nhau chỉ  là do ánh sáng chói  chang của đồng tiền đưa lối, dắt đường. Đưa một số phận con người về nơi bên kia của  thế giới, của trần gian mà trong ánh mắt, đôi chút suy nghĩ của họ đâu có gì gửi gắm vào  bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như  không còn có sự  tồn tại của tình   thương giữa người với người. Giữa hộ là khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá. Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn con cháu cụ cố tổ  ghê tởm đến   thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo kia lại muốn khẳng định   chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà chúng đang tổ  chức phải trở  thành   một kiểu mẫu trong thiên hạ. Những kẻ  mong cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh  phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật   vang, cái mong muốn “bẩn thỉu”  ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả  bao phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, “chó đểu”. Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội. Từ cái hạnh phúc,  sung sướng của một “lũ người gớm ghiếc” là một “thế thái nhân tình” được xây dựng trên  nền tảng là sự tàn nhẫn và sự  dối trá. Con người với con người đối với nhau mà như  là   bằng băng đá tê cứng, đóng lạnh, không còn một chút hơi ấm của tình yêu thương. Cụ cố  tổ  mất đi lại không hề  mảy may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng  tìm đến đám ma mà để lấy và thực hiện sớm bản di chúc. Chỉ  còn lặng lẽ sau trang sách  là nỗi đau đớn khôn nguôi của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, “lũ” con của cụ tự 
  4. cho mình là chí hiếu, chúng không, nhận thấy trong suy nghĩ, hành động của chúng là sự  tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để với đến hai chữ “chí hiếu” là  từ tàn nhẫn và dối trá mà ra, nó “mỏng manh”, dễ dứt. Cố lấy cái vẻ bề ngoài mà che đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự dối trá đến tàn  nhẫn. Trong thế giới mà bọn họ đang sống, đang tồn tại đâu có phải là một “thế thái nhân  tình”. Cái thế giới của tình người chỉ đáng có khi con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn  nhau. Còn  ở  đây, con người như  là vật hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân của đồng   tiền. Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều quy tụ  chung dưới   hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thặt đông đảo; sự xấu xa, đồi bại   của xã hội có mặt ở khắp nơi. Bằng điệp khúc: “đám cứ  đi”, tác giả  đã đặc tả  một đám  ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng   đi đưa đám. Tất cả – trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà tuy   cố  giữ  bộ  mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì đó.   “Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra, không hề khép lại   và chẳng biết sẽ  kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái thế  giới tình người mà tác   phẩm, đoạn trích có nói, cổ thể hiện chỉ là sự tàn nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, đối trá ấy   đâu chỉ diễn ra trong xã hội “người .dưng”, mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong  bản thân những con người cùng một gia đình, họ  hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang,   phú quý,  ồn ào của cụ  tổ  đâu có thể  che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá của cụ  cố  Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư Tăng Phú… Sự lố lăng của đầm tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện: Xuân Tóc Đỏ  và sư  cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao   bà cụ  cố  Hồng lại hí hửng vì sự  có mặt của hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng  cắm trên chở sư chùa Bà Banh vì 2 vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự  có mặt của những thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lãng, chỉ biết sư  cụ  Tăng Phụ  đã chớp lấy “thời cơ  tang gia để  kiếm lợi trong cuộc đấu tranh chính trị  nhằm củng cố thanh thế của Hội phật giáo”. Còn Xuân Tóc Đỏ lại là ân nhân của gia đình  cụ  cố  Hồng và là “người chồng ăn hỏi” của cô Tuyết Hạnh phúc gia đình, thế  giới tình  người trong gia đình ấy là sự dối trá bởi cách hết bịt mồm của vợ chồng Văn Minh và sự 
  5. tôn xưng lên mây cao của họ, sự tàn nhẫn và dối trá trong lối sống của họ  là cái đế  tạo  nên sự  sụp đổ  của một xã hội thối nát. Dưới con mắt sắc sảo của Vũ Trọng Phụng,  những con ‘người xấu xa ấy không phải là một “nhóm người”, chung thật đông đảo và có  mặt ở khắp nơi. Bởi vậy, có người đã coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống mộ  của toàn xã hội thực dân phong kiến. Với một tác phẩm hiện thực sâu sắc: “Số  đỏ”, Vũ Trọng Phụng đã thể  hiện khá rõ và   đậm nét bản chất thối tha, dối trá, tàn nhẫn và “chó đểu” của xã hội. Tình yêu thương,   lòng nhân ái cao cả của một thế giới tình người không bao giờ có thể tồn tại trong cái xã  hội ấy dù chỉ là một giây.  
nguon tai.lieu . vn