Xem mẫu

  1. Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  2. GIỚI THIỆU VỀ CUỐN SÁCH Cuốn sách dành cho những an quan tâm đến việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực Quản lý môi trường đô thị (QLMTĐT). Việc thiết kế cuốn sách dựa trên giả thiết về sự nhạy cảm và sẵn sàng lồng ghép giới những không cần qua chương trình đào tạo mà học thông qua việc quan sát, việc mong muốn cải thiện cuộc sống của người dân trong cộng đồng, sự lắng nghe và hiểu mọi người. Do đó, chúng tôi cũng không muốn nói rằng những ai sẽ đọc cuốn sang này sẽ ngay lập tức sẽ trở nên nhạy cảm với các vấn đề giới. Nhưng ngược lại, nhạy cảm giới hay sự sẵn sàng trong việc lồng ghép giới sẽ là một điều kiện tiên quyết để sử dụng cuốn sách này một cách hiệu quả. May thay, trong việc thực hiện Dự án Vùng Đông Nam Á về Ứng dụng trong quản lý môi trường đô thị (dự án SEA-UEMA) trong những năm qua, chúng tôi đã nhìn thấy thêm nhiều người làm công việc thực tiễn có sự nhạy cảm giới trong lĩnh vực QLMTĐT. Do đó, chúng tôi tin tưởng rằng cuốn sách về những trường hợp cụ thể sẽ có ích cho nhiều cá nhân và tổ chức. Tại sao tôi nên đọc cuốn sách này? Cuốn sách này được thiết kế cho những nhà quản lý dự án và những người làm ở cộng đồng. Những trường hợp nghiên cứu được lựa chọn ở đây chủ yếu ở cấp độ dự án, những dự án này đã khuyến khích việc phân tích giới trong quá trình làm việc tại thực địa và được các chuyên gia giới tại từng quốc gia xây dựng nên. Việc xác định các vấn đề giới là bước quan trọng đầu tiên trong việc cải thiện những hoạt động giới ở cấp độ dự án. Do đó, cuốn sang này được dành cho việc cải thiện năng lực của người sử dụng nhằm tiến hành phân tích và xác định những vấn để giới, để từ đó có thể thiết kế những can thiệp phù hợp. Cuốn sách này đã được xây dựng trong nhiều năm trong quá trình thúc đẩy bình đẳng giới thông qua thực hiện dự án SEA_UEMA. Một trong những nhu cầu quan trọng được phát hiện đó là năng lực để xác định các vấn đề giới vẫn còn là một điểm yếu trong quá trinh đưa vấn đề giới vào những dự án liên quan đến QLMTĐT. Tôi sẽ sử dụng cuốn sách này như thế nào? Cuốn sách này được thiết kế cho việc tự học. Một cách lý tưởng, những nhà quản lý dự án và những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực QLMTĐT nên tham gia một loạt các tập huấn về lồng ghép giới nhằm được trang bị những kiến thức về phân tích giới. Tuy nhiên, trong thực tế, sẽ rất khó khăn cho những người làm công tác thực tiễn để tham dự các chương trình tập huấn thường xuyên khi có yêu cầu. Do đó, cuốn sách về các trường hợp điển cứu này được thiết kế cho những ai không có thời gian tham dự các chương trinh tập huấn giới nhiêu lần, và cho những người mong muốn nâng cao trinh độ kĩ năng của mình về phân tích giới. Hướng dẫn sử dụng cuốn sách 1 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  3. Cuốn sách này sẽ được bắt đầu bằng việc giải thích khung phân tích giới được xây dựng cụ thể cho dự án SEA-UEMA. Khung này đưa ra những khái niệm và lĩnh vực quan tâm nhằm tiến hành phân tích giới, và đây được coi như là những chỉ dẫn cho việc tiến hành phân tích giới. Các chương tiếp theo là những trường hợp cụ thể trong đời sống từ bảy quốc gia Đông Nam Á và được chia thành ba tiểu lĩnh vực: nước và vệ sinh, ô nhiễm không khí và quản lý rác thải. Và cuối cùng của từng trường hợp nghiên cứu sẽ đưa ra một số câu hỏi gợi ý. Chúng tôi cũng đề xuất rằng những người sử dụng cuốn sách này nên đọc kĩ phần khung phân tích giới trước, sau đó xem xét các trường hợp nghiên cứu cụ thể. Những trường hợp được sắp xếp ngẫu nhiên và không cần thiết phải đi qua các trường hợp này một cách thứ tự. Người sử dụng có thể thoải mái lựa chọn những trường hợp liên quan đến quốc gia của mình hay lựa chọn những trường hợp trong cùng bối cảnh lĩnh vực. Khi đã có ý tưởng cụ thể về khung phân tích, chúng tôi cũng khuyến khích người sử dụng phân tích giới cho các trường hợp. Người sử dụng cũng nên suy nghĩ về các câu hỏi được đưa ra ở phần cuối của các trường hợp, những câu hỏi này nhằm giúp đỡ người sử dụng trong việc đào sâu hoặc mở rộng những phân tích. Lời cuối Một điều quan trọng đó là phân tích giới là một quá trình khám phá và tìm hiểu, xác định đường đi đến với mục tiêu bình đằng giới và trao quyền cho phụ nữ. Khung khái niệm phân tích giới và những câu hỏi hướng dẫn, tất cả đều hướng đến mục đích này. Cung cấp những câu trả lời cho những câu hỏi này hay đưa ra một khung phân tích sẵn có sẽ làm hạn chế suy nghĩ của người sử dụng và do đó, chúng tôi không cung cấp một câu trả lời nào. Những người làm công tác đào tạo có thể sử dụng cuổn sách này, và có thể tự điều chỉnh độ dài của các trường hợp nhằm làm cho chúng dễ dàng được sử dụng trong các chương trình tập huấn. 2 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  4. CHƯƠNG II: KHUNG PHÂN TÍCH GIỚI VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NÁM Á – KHUNG CHO VIỆC PHÂN TÍCH VÀ NHỮNG NHU CẦU NGHIÊN CỨU Kyoko Kusakabe GIỚI THIỆU Dân số đô thị ở Đông Nam Á (ĐNA) đang gia tăng một cách nhanh chóng. Trong suốt những năm 1980, dân số đô thị chiếm khoảng 40% tổng dân số ở Philippine. Nhưng con số này đã tăng lên là 60% vào năm 2001. Tương tự, dân số đô thị ở Cambodia đã tăng lên gấp đôi từ 10% từ năm 1980 đến gần 20% vào năm 2001. Sự gia tăng tương tự cũng được ghi lại ở các quốc gia khác thuộc khu vực ĐNA. Với sự tăng nhanh về dân số, những vấn đề lien quan đến QLMTĐT trở nên thực sự quan trọng. Là những người lao động, người dọn dẹp cho gia đình, người mẹ và những người di cư, phụ nữ trải qua những kinh nghiệm và sự xuống cấp của môi trường đô thị một cách sâu sắc hơn nam giới (Momsen 2004). Sự khác biệt về giới tính, phân công lao động theo giới tính và các quan hệ giới, tất cả đã dẫn đến những ảnh hưởng khác nhau do môi trường xuống cấp lên phụ nữ và nam giới. Khác biệt giới cũng dẫn đến sự phân biệt đối xử trong việc phụ nữ và nam giới tiếp cận đến các dịch vụ của đô thị. Từ đó, sẽ rất quan trọng trong việc hiểu các kinh nghiệm và nhu cầu khác nhau của phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực QLMTĐT. Tuy nhiên, vẫn còn có sự hạn chế trong việc nhận thức rằng khác biệt giới và quan hệ quyền lực dựa trên yếu tố giới đóng vai trò lớn trong QLMTĐT. Điều này biểu thị thông qua sự tham khảo không đầy đủ về các vấn đề giới trong chính sách và chương trình QLMTĐT ở Châu Á. Tầm quan trọng của việc đưa các khía cạnh giới cuối cùng đã được nhiều người làm chính sách và thực địa trong lĩnh vực này nhận ra, những thống kê, thông tin và số liệu vẫn còn thiết, chỉ có rất ít dự án nhận ra một cách đầy đủ và quan tâm những vấn đề và khó khăn trong việc đạt được bình đẳng giới tại cộng đồng. ĐƯA GIỚI VÀO CÁC DỰ ÁN Nhiều dự án phát triển gặp phải những vấn đề tương tự trong việc thiếu nhận thức về giới, thiếu năng lực cho việc phân tích giới, thiếu số liệu và thống kê để tiến hành phân tích giới v.v… Một trong những chiến lược chính được sử dụng trong việc lồng ghép giới đó là việc tạo ra các khung phân tích giới và bảng kê kiểm tra các vấn đề giới (Moser và Moser 2005; Levy 1992). Có một nhu cầu thực sự từ những người thực hiện dự án trong việc học “làm thế nào” để “đưa giới” vào dự án nhằm lồng ghép những khía cạnh giới vào dự án (Warren 2007). Các khung phân tích giới được giả định sẽ giúp người làm dự án “đưa giới” vào dự án. Nhưng cụ thề một khung phân tích giới là cái gì? ADB (2003) đã chỉ ra rằng một khung phân tích giới là 3 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  5. “Một công cụ linh động với những mục đích cụ thể để hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện các chương trình và dự án làm tăng tối đa hiệu quả và sự tham gia của phụ nữ và nam giới, và bao gồm những sắp xếp thực hiện hiệu quả các chiến lược, chính sách, can thiệp và dự án” Định nghĩa này đã chỉ ra rằng khung phân tích giới là một công cụ nhằm cung cấp những ý tưởng và thông tin cụ thể cho một mục đích cụ thể của một dự án. Tuy nhiên, nhiều bàn luận về khung phân tích giới lại chỉ ra một cách khác. Khung phân tích giới tồn tại không phải để đưa vào dự án, mà để chỉ ra những cách nhìn khác nhau vào hiện tượng. Và mục đích cuối cùng không phải để cho dự án hiệu quả mà là thay đổi các cách và giá trị vẫn thường được làm để đạt được bình đẳng giới. Và như thế, Kabeer chỉ ra rằng không có một cách chính sách để “làm các vấn đề giới” và: Mục đích chính của khung phân tích đó là gây nên chú ý vào các quá trinh mà ở đó sự khác biệt giới tính đã được chuyển thành sự bất bình đẳng xã hội về giới tính trong các xã hội khác nhau (Kabeer, 1999:11). Hai định nghĩa này từ hai phương hướng khác nhau dựa trên những giá trị khác nhau. Như Warren (2007) đã lập luận, khung phân tích giới dựa trên những giá trị và hệ tư tưởng và không thể hiểu được nó nếu không hiểu về những giá trị đã hướng đến việc xây dựng khung phân tích. Tuy nhiên, khi các khung phân tích được ứng dụng tại thực địa, hai cách suy nghĩ này không cần thiết phải được phân định rõ. Điều này tạo nên sự lạm dụng các khung phân tích về các khung này được khuôn khổ nhằm cho phép người sử dụng hiểu về giá trị/hệ tư tưởng đằng sau nó. Như một hướng dẫn cho hệ tư tưởng của bình đẳng giới, một khung phân tích giới nên, diễn giải lại, Kabeer cho rằng (1999), không đặt ra một cách cứng nhắc trong việc nhìn nhận sự việc, mà (1) giới thiệu những giá trị sẵn có trong việc kiểm chứng các cách mà sự việc được thực hiện. Bình đẳng giới là một giá trị quan trọng, việc chia sẻ bình đẳng khối lượng công việc và đưa là quyết định là những giá trị quan trọng v.v… và những điều này sẽ được diễn tả qua khung phân tích giới. (2) làm cho công việc của những chuyên gia không chuyên về giới dễ dàng hơn trong việc hiểu những điều gì cấu thành nên những vấn đề giới và nhu cầu giới tại địa điểm và lĩnh vực cụ thể. Một cách lý tưởng, một khung phân tích giới cần có sự linh hoạt để ứng dụng vào nhuẽng bối cảnh khác nhau, và cụ thể để có thể có thể áp dụng được cho các câu hỏi trong các lĩnh vực. Fong và các đồng nghiệp (1996:2) chỉ ra rằng “phân tích giới có thể giới việc đảm bảo cung cấp các dịch vụ cho phụ nữ và nam giới mong muốn và những dịch vụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của họ”. Sự linh hoạt ở đây ám chỉ việc không quá lơ mơ hay không quá mang tính khái niệm, mà điều này sẽ gây nên khó khăn cho những chuyên gia không thuộc lĩnh vực giới để tuân thủ. Sự linh hoạt được dựa trên sự hiểu biết về những gì có thể bao gồm trong những bối cảnh 4 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  6. khác nhau trong từng khu vực. Do đó, một điều quan trọng là khung phân tích giới cần phải được xây dựng dựa trên một bối cảnh, địa điểm và lĩnh vực cụ thể. Do đó, chương này sẽ giới thiệu một khung phân tích giới rất cụ thể cho khu vực ĐNA, lĩnh vực cụ thể là QLMTĐT, đặc biệt chú trọng vào những tiểu lĩnh vực: nước và vệ sinh, quản lý chất thải rắn và ô nhiễm không khí. Để đặt ra những bối cảnh địa lý và lĩnh vực, chương này sẽ đầu tiên trình bày tổng quát về tình trạng phụ nữ trong lĩnh vực QLMTĐT ở ĐNA từ những nghiên cứu và thống kê hiện thời. Dựa theo đó, chương này sẽ giới thiệu một khung phân tích có thể được sử dụng để xác định những vấn đề giới trong QLMTĐT ở ĐNA và xác định những lĩnh vực cần có sự can thiệp của dự án. Mặc dù không có khung phân tích giới cụ thể trong lĩnh vực QLMTĐT, nhưng có một vài khung phân tích giới liên quan và khung phân tích này sẽ được xây dựng dựa trên những nền tảng đó. Hướng dẫn trong phân tích về nước và vệ sinh do Wendy Wakerman xây dựng (1995) trong quá trình ESCAP (2003) xây dựng một loạt những chỉ số giới sử dụng những thống kê kinh tế vĩ mô. Cũng đã có những khung phân tích đã được xây dựng hoàn thiện và được ứng dụng như khung phân tích Harvard, Moser, Khung ma trận phân tích giới, Khung trao quyền của Lơngwe, và cách tiếp cận quan hệ xã hội của Naila Kabeer. Khung phân tích giới cho lĩnh vực QLMTĐT ở ĐNA đã được xây dựng vì: “Không có một tiêu chuẩn lý thuyết nào về phát triển, giới và môi trường, nhưng có khung phân tích bối cảnh về sự phát triển, phụ nữ và môi trường phản ứng và tương tác với nhau. Điều đó để nói rằng, quan hệ giữa phụ nữ và môi trường chỉ có thể được hiểu thông qua phân tích thể chế, mà ở đó hai yếu tố này tương tác với nhau, nơi mà ở đó sự phát triển diễn ra” (Zein-Elabdin, 1996, p.930). Do đó, để cho kết quả tốt nhất, một khung phân tích tách biệt phải được xây dựng cụ thể cho từng bối cảnh và vấn đề cụ thể. Hơn nữa, khung phân tích giới được ứng dụng tại thực địa trong quá trình xây dựng dự án sẽ không phải lúc nào cũng do những chuyên gia giới thực hiện. Mục đích của việc phát triển khung phân tích giới thực sự đã cho phép những chuyên gia không thuộc lĩnh vực giới tham gia vào việc phân tích giới. Theo nghĩa này, cần thiết phải xây dựng khung phân tích giới mà ở đó cần hoàn cảnh hoá rõ rang, thậm chí khó có thể thực hiện trong từng và mỗi bối cảnh cụ thể. QLMTĐT là một lĩnh vực tương đối mới. Tổng quan nghiên cứu về phụ nữ/những khía cạnh giới và môi trường chỉ ra rằng vai trò phụ nữ, trách nhiệm và việc sử dụng nguồn lực như đất, rừng và nước. Những nhấn mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường thường đi đôi với tài nguyên thiên nhiên. Levy (1992:144) chú ý “cách đơn giản nhất gắn giới và môi trường là việc sử dụng nguồn tài nguyên của phụ nữ và nam giới”, nhận ra những hệ thống sản xuất và tiêu thụ nơi họ đang vận hành trong những bối cảnh cụ thể”. 5 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  7. Trong bối cảnh QLMTĐT, sản xuất và tiêu thụ không trực tiếp với nhau, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, ngoài sản xuất và tiêu thụ, chúng ta cần chú ý đến lao động và những dịch vụ cung cấp. Vai trò của thị trường và nhà nước như là những người giữ cổng hay những rào cản của lao động và việc làm cho thể kết nối trực tiếp hơn ở khu vực đô thị hơn là nông thôn. Do đó, khung phân tích được sử dụng trong tổng quan về giới và môi trường không trực tiếp ứng dụng được cho việc phân tích giới trong QLMTĐT. CÁC VẤN ĐỀ GIỚI TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NAM Á NƯỚC VÀ VỆ SINH Huynh (2007) chỉ ra rằng 48% hộ gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Ở Dili, Đông Timor, chỉ có 43.8% dân số được tiếp cận đến nước sạch và 80% đã bị các bệnh do kí sinh trùng gây ra hay những bệnh khác. Không có hệ thống nước thải dẫn đến những bệnh dịch do muỗi và nước bẩn gây ra (Robertson, 2007). Trong những người dân sống trên thuyền ở Việt Nam, cả phụ nữ và nam giới phải làm việc dưới nước cả ngày và nước lụt lội đã gây ra những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng. Phụ nữ dễ bị tổn thương nhiều hơn vì chức năng tái sản xuất của mình và sức khoẻ sinh sản của do ảnh hưởng của nước bị ô nhiễm. Một phân tích giới ở Metro Manila chỉ ra rằng 33% dân số sống cùng với nước không thể sử dụng cho ăn uống, và 29% dân số không có thiết bị vệ sinh (Rivesa, 2007). Ở Deli, chỉ có 30% hộ gia đình được trang bị đường ống nước sạch, và 10% phải lấy nước từ nguồn không đảm bảo (Robertson,2007). Thiếu tiếp cận đến nước sinh hoạt là một vấn đề nghiêm trọng ở Dili, với 94% phụ nữ đã cho rằng tiếp cận đến nước là một nhu cầu quan trọng nhất. Ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, người dân phải mua nước từ những người bán nước rong và số tiền hàng tháng cho tiền nước có thể lên đến 100,000 VND, tương đương với 6.25 USD 1 (Huynh, 2007). Trong khi những người phải mua nước sạch chỉ có thu nhập từ 20.000 đến 30.000 VND/ngày thì đây quả là một số tiền không nhỏ cho người nghèo. Phân tích giới ở Surabaya, Indonesia chỉ ra rằng chỉ có 24.5 % những người được phỏng vấn có hệ thống nước máy (Wisjibroto, 2007). Trung bình, phụ nữ mất khoảng 30 phút để đi lấy nước hàng ngày, thậm chí nhiều người mất đến 60 phút. Thiếu tiếp cận đến các dịch vụ vệ sinh ở khu vực đô thị gây nên những tổn thất cho phụ nữ về vấn đề sức khỏe, tiền bạc và thời gian. Những nguồn lực tài chính cần thiết cho nguồn nước cũng                                                              1 16.000VNĐ = 1 Đôla Mỹ 6 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  8. như quản lý chất thải rắn là những gánh nặng cho phụ nữ do phân chia lao động giới truyền thống. Phụ nữ thường là người quản lý tài chính trong gia đình, và điều này là những gánh nặng cho họ vì việc mua nước sẽ làm cho kinh tế của gia đình khó khăn hơn, điều này dẫn đến việc họ phải làm việc dài hơn và ít tiền hơn cho việc mua thức ăn. Ở Philippine, người dân thường có xu hướng sử dụng nước bị ô nhiễm làm nước uống nếu như nguồn cung cấp nước uống bị cắt cho việc chưa trả tiền (Rivetra-Santander, 2004). Là những người phải đi lấy nước, phụ nữ và trẻ em gái thường bị ảnh hưởng nhiều hơn. Ngoài tiền, sức khỏe và thời gian bỏ ra nhiều hơn, sức khỏe thể chất của phụ nữ cũng bị ảnh hưởng cho việc thiếu các dịch vụ môi trường đô thị. Ở Surabaya, 66.6% người trong nhóm được nghiên cứu sử dụng lòng sông cho việc đi vệ sinh và sử dụng nước sông hồ để tắm, mặc dù những hoạt động này gây nên những vấn đề không an toàn cho phụ nữ (Wisinubroto, 2007). Nhà xí ở trường học cũng gây ra những ảnh hưởng giới, đặc biệt ở những học sinh lớn. Syphoxay (2005) nghiên cứu tại một trường cấp ba ở Vientianne, Lào tìm ra rằng 68% học sinh nữ về nhà để đi vệ sinh trong khi chỉ có 38% học sinh nam làm điều này. Điều này bởi vì nhà xí ở trường học rất bẩn thỉu, và học sinh nữ cảm thấy ngượng ngùng khi sử dụng những nhà xí gần trường học. Trang thông tin điện tử về giới phát hiện ra rằng học sinh nữ, đặc biệt là học sinh mới lớn bỏ trường học vì thiếu những trang bị vệ sinh đúng cách. Nhà vệ sinh thường được nam giới thiết kế, trong khi những người này thường không nhạy cảm với những nhu cầu cụ thể của các trẻ em gái. Nhà vệ sinh của trẻ em trai và trẻ em gái thường được xây dựng quá gần nhau. Chỗ đi tiểu cho các bé trai thường quá cao nên thường xuyên chạy sang chỗ vệ sinh của các bé gái để đi vệ sinh. Trích dẫn trong một báo cáo của UNICEF của một nhóm làm việc liên tổ chức về nước và giới (2004) chỉ ra rằng một dự án về vệ sinh cho các trường học với những trang thiết bị riêng rẽ cho các trẻ em trai và trẻ em gái giúp đẩy nhanh việc đi học của trẻ em trai và gái đã giúp tăng số lượng trẻ em gái đi học tăng 11% qua các năm từ năm 1992 đến 1999. Phụ nữ cũng cần những trang thiết bị vệ sinh hơn nam giới. UNDP (2003:66) chỉ ra rằng ở những nước như Cambodia, Indonesia và Việt Na, phụ nữ rất ưu tiên việc xây dựng buồng vệ sinh trong ngôi nhà của họ, và đã thành công trong việc thuyết phục chồng họ để xây dựng buồng vệ sinh ngay trong nhà. Ở Nam Á, nơi phụ nữ thường bị phân biệt, phụ nữ dễ bị tổn thương khi có những trận lũ lụt vì những thực hành về văn hóa đòi hỏi phụ nữ đi ra ngoài thường phải có ai hộ tống (Parkinson, 2003). Mặc dù ở ĐNA thì đây không phải là việc phổ biến nhưng phụ nữ cũng bị ảnh hưởng nhiều do việc lũ lụt. Phụ nữ thường bị ảnh hưởng do hệ thống thoát nước nghèo nàn và việc lũ lụt ở những khu vực nấu nướng. Parkinson (2005) chỉ ra rằng khối lượng công việc nhiều của phụ nữ bị tăng lên cho một số lý do sau: 1) thiệt hại kinh tế, 2) sự đổ vỡ của hệ thống sinh kế mà trong đó họ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại, 3) đối mặt với những thay đổi xã hội 7 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  9. và tinh thần do phải đối mặt với cái chết, bệnh tật và cạn kiệt nguồn thức ăn sau khi lụt lột xảy ra. Ở Nam Á, Bapat và Agarwal (2003) đã chỉ ra trong nghiên cứu của họ tại Mumbai và Puna ở Ấn Độ rằng nước và vệ sinh là một trong những khó khăn gây nhiều sức ép và tiêu tốn về thời gian nhất, đặc biệt cho phụ nữ. Nhìn chung, trong lĩnh vực nước và vệ sinh ở ĐNA đã nhận thấy việc cần thiết tập trung vào nước nông thôn (xem Wackmen, 1995, Nhóm làm việc liên tổ chức về Giới và nước), trong khi nước và vệ sinh ở khu vực nông thôn đã được nhìn nhận là không nổi trội hơn. QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Quản lý chất thải rắn đô thị có thể được phân loại thành rác thải sinh hoạt, chất thải nguy hiểm, chất thải từ nông nghiệp và công nghiệp, bệnh viện và chất thải sinh học- y tế. Vấn đề quản lý chất thải rắn là những vấn đề liên quan đến việc thu lượm, xử lý chất thải, xử lý để tái sử dụng. Những nguy hiểm về sức khỏe là rất cao thông qua việc tiếp xúc với chất bài tiết hay những chất thải thô. Bệnh viêm gan, ỉa chảy, những bệnh dị ứng về da và mắt là rất phổ biến Phụ nữ và nam giới đóng vai trò khác nhau trong việc quản lý chất rắn. Thiếu các dịch vụ quản lý chất rắn có thể gây nên những khó khăn cũng như những nguy hiểm sức khỏe cho cả phụ nữ và nam giới. Ở Yogyakarta, Indonesia, dịch vụ thu gom chất thải rắn chỉ phục vụ được khoảng 25% các hộ gia đình (Sumiarani và Ayum, 2005). Phụ nữ thường có xu hướng bị thiệt thòi nhiều hơn do việc thiếu các dịch vụ do họ phải chịu trách nhiệm về việc vứt rác của gia đình. Ở Đông Timo, đã có báo cáo rằng vai trò của phụ nữ trong việc quản lý chất thải rắn đã gây cho họ không chỉ những nguy hiểm sức khỏe khi tiếp cận đến những nơi dổ rác ngoài trời, mà còn tạo nên những nguy hiểm cho họ khi những nơi vứt rác thải thường ở ngoài cộng đồng và đường đi đến nơi đổ rác thường không an toàn 2 . Phụ nữ và trẻ em thường ở nhà nhiều hơn nam giới, và ở những khu vực nông thôn nghèo, những phụ nữ làm việc tại gia đình thường có phải làm việc ở những nơi có điều kiện vệ sinh không an toàn vì nhà và nơi làm việc là một nơi. Ngamnetr (2005) báo cáo rằng những người lao động làm công việc tại gia đình thường làm việc dưới điều kiện không đảm bảo sức khỏe, không thông thoáng, nóng, chất độc hại hóa học và bụi, hệ thống rác thải nghèo nàn, và thời gian làm việc lâu tại nhà. Mạng lưới HomeNet ở Thái Lan đã và đang giới thiệu một công nghệ sạch cho những người làm việc tại gia đình nhằm cải thiện điều kiện làm việc của họ. Một điều quan trọng đó là phụ nữ phải được tham gia vào việc lên kế hoạch quản lý chất thải rắn. Ở những nơi như Lào và Thái lan, chất thải được ném trực tiếp xuống kênh, rạch và làm ô nhiễm kênh, rạch. Chounlemountry (2007) báo cáo rằng các cộng đồng ở ven các kênh ở Vientiane, phụ                                                              2 Đối thoại cá nhân với Gabrielle Groves 8 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  10. nữ nhạy cảm hơn nam giới về tầm quan trọng của việc quản lý chất rắn hơn nam giới (55% phụ nữ, 46% nam giới). Trong những người làm công nhân rác thải, phụ nữ thường là người thu lượm rác, trong khi nam giới thường là người vận chuyển 3 . Do đó, phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới khi tiếp xúc với rác thải và từ đó cần phải yêu cầu việc bảo vệ được cải thiện và tập huấn đào tạo trong việc tiếp xúc với rác thải. Phụ nữ thường mang theo trẻ con nhỏ khi họ đi nhặt rác vì họ không sắp xếp được dịch vụ chăm sóc sức khỏe, và từ đó trẻ em cũng có nguy cơ đối mặt với môi trường ô nhiễm. Medina (trong trang web của WIEGO) chú ý rằng ở Port Said, Ai Cập, tỉ lệ trẻ em chết yểu ở những cộng đồng thu lượm rác cao gấp nhiều lần so với những cộng đồng khác do cứ ba trẻ em thì có một trẻ em chết dưới một tuổi. Muller và Schienberg (trong trang thông tin điện tử GDRC) chỉ ra rằng phụ nữ nhặt rác dễ bị tấn công/hiếp dâm trong khi làm việc ở những nơi hẻo lánh như là bãi rác. Rác rưởi từ công nghiệp có thể có những ảnh hướng bất lợi lên sức khỏe phụ nữ hơn so với nam giới. Ở Philippine, Maramba và các đồng nghiệp (2006) đã nghiên cứu về những ảnh hưởng của mỏ thủy ngân bị cấm. Họ đã phát hiện ra rằng tỉ lệ thủy ngân ở nhóm phụ nữ mang thai bị dễ ảnh hưởng hơn nhiều, điều này đương nhiên sẽ ảnh hưởng phụ nữ và trẻ em. Ô NHIỄM KHÍ Ô nhiễm không khí ở những thành phố Châu Á đang tăng nhanh. Mặc dù mọi người đều bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm khí, nhưng trẻ em và người già là những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Đã có sự tăng nhanh tác động về hệ hô hấp đối với khu vực thành thị. Gần hai triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết hàng năm do ảnh hưởng về hệ hô hấp, theo cáo cáo từ trang web của Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh dịch, Sở sức khỏe và dịch vụ con người. Tổ chức sức khỏe thế giới WHO cũng ước chừng có khoảng 40% trường hợp có vấn đề về hệ hô hấp là do điều kiện môi trường. Với vai trò là những người chăm sóc người ốm, những ảnh hưởng do gánh nặng về khối lượng công việc lại tăng lên khi do những ảnh hưởng của môi trường lên sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Một vài phụ nữ va nam giới nghèo không có sự lựa chọn nào và phải làm việc trong những khu vực ô nhiễm khí. Những người bán hàng di động chủ yếu là khu nữ ở khu vực ĐNA, công an giao thông, chủ yếu là nam gới là những nhóm có nguy cơ rất cao do những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đường phố. Karita và các đồng nghiệp đã nghiên cứu sự liên hệ của bệnh ho mãn tính và ho đờm của nhóm công an giao thông ở Bangkok (nơi ô nhiễm khí nặng) và ở Ayuttay (nơi ít tắc nghẽn giao thông). Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng do một số định kiến,                                                              3 Thành phố Inbadan ở Nigieria, đã chỉ ra sự phân công lao động theo giới trong ngành rác thải sinh học y tế.Phụ nữ qutét và thu lượm rác, trong khi đó nam giới vận chuyển rác. Việc thu lượm rác được thực hiện bằng tay, do đó có những nguy cơ sức khoẻ cao hơn. Họ cũng không được đào tạo hiệu quả trong việc quản lý việc truyền bệnh như thế nào (Chương trinh quản lý đô thị, 2001) 9 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  11. một vài cảnh sát giao thông đã giấu những triệu chứng bệnh của họ do sợ mất việc. Họ cũng chỉ ra rằng nếu những định kiến như vậy là đúng, sự khác biệt sẽ rõ hơn nhiều. Phụ nữ và nam giới nghèo cũng phải đối mặt với ô nhiễm khí tại nơi làm việc. Ở Thái Lan, phụ nữ làm việc trong ngành may mặc bị ảnh hưởng rất nhiều do bệnh phổi nhiễm bụi bông, bệnh phổi do bụi vải. Hơn ba phần tư công nhân đã đòi chủ lao động phải bồi thường về những thiệt hại này (trang điện tử CSR. Ngamnetr (2005) cũng chỉ ra nhiều người làm việc tại gia đình phải làm việc trong những điều kiện không thoáng mát. Phụ nữ là những người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất do ô nhiễm khí trong gia đình do việc nấu nướng. Trang thông tin của Ngân hàng thế giới Philippine chú ý về một nghiên cứu của Sở Y tế ở Manila năm 1999 chỉ ra 48% trong 108 hộ gia đình được lựa chọn một cách ngẫu nhiên đã vượt qua mức ô nhiễm khí cho phép trong gia đình. Nghiên cứu kết luận rằng “ô nhiễm khí có thể lả một nguyên nhân chính, các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khói trong nhà do đun bằng dầu hỏa, củi, than cũng là những yếu tố chính dẫn đế việc ô nhiễm trong gia đình. Ô nhiễm khí trong gia đình do việc nấu nướng bằng dầu cũng có xu hướng ảnh hưởng sức khỏe nhiều hơn nam giới. Shretha (2006) nghiên cứu tại hai làng ở Phnompenh, Cambodia đã phát hiện ra rằng hầu hết những người bị bệnh đường hô hấp là phụ nữ. Hơn 90% người nấu nướng trong gia đình là phụ nữ vì họ phải dùng ít nhất từ 1-2 giờ đồng hồ hàng ngày. Khu bếp thường nhỏ và ít thông thoáng. Chỉ có khoảng20-25% những người tham gia trong cuộc nghiên cứu sử dụng gas cho việc đun nấu nhưng gas thường đắt hơn so với các loại chất đốt khác. PHỤ NỮ LÃNH ĐẠO VÀ TRAO QUYỀN CHO PHỤ NỮ Do phụ nữ bị những ảnh hưởng khác nhau do môi trường đô thị xuống cấp và vai trò đặc biệt mà họ đang nắm giữ, nên quan niệm của họ về QLMTĐT cũng khác so với nam giới (Muller và Schienberg). Phụ nữ không chỉ là nạn nhân mà còn là một tác nhân quan trọng trong việc quản lý nguồn nước. Chan va Nittivatananon (2006) có ghi lại rằng vai trò của phụ nữ quyết định những công nghệ tiết kiệm nước ở Malaysia, và nhấn mạnh sự tham gia của phụ nữ trong quản lý nước như là yếu tố quyết định cho những nỗ lực nhằm tiết kiệm nước. Trường hợp ở Hua Lamphong Klong ở Thái Lan (ADB 2006) đã chỉ ra vai trò vô cùng quan trọng mà phụ nữ đã thực hiện trong việc giữ gìn kênh rạch sạch sẽ. Chung và Poon ghi lại rằng ở Hongkong, phụ nữ là những người tham gia nhiều nhất trong việc quản lý rác, và thái độ của người vợ là yếu tố quyết định cho sự thành công trong việc phân loại rác thải ngay từ trong gia đình Trong tất cả các quốc gia trong khu vực, phụ nữ thường chỉ nắm giữ những vị trí không quan trọng so với nam giới. Sự đại diện của họ trong các vị trí ra quyết định ở những nơi công cộng thấp hơn nam giới. Sự tham gia của họ trong các cơ quan ra quyết định thường thấp. Ví dụ, một phân tích giới ở Yogyakarta (Surmiarmi và Arum, 2007) chỉ ra rằng ở ban quản lý dân phố chỉ 10 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  12. có 2.5% phụ nữ. Muller và Schienberg (trang web của GDRC) chỉ ra một vấn đề là phụ nữ thường gặp nhiều vấn đề trong việc sắp xếp thời gian để tham dự các cuộc họp vì họ phải dùng thời gian của mình chủ yếu cho việc kiếm tiền để hỗ trợ gia đình. Mặt khác, phụ nữ cũng được nhìn nhận là tham gia rất tích cực trong công việc xây dựng tại cộng đồng so với nam giới. Fong và các đồng nghiệp (1996: trang 21) ghi lại rằng phụ nữ đóng góp nhiều công lao động hay nấu thức ăn tự nguyện trong quá trình xây dựng đường ở các quốc gia như Pakistan, Ấn độ, Thái Lan và Bangladesh. Đây cũng là điều dễ nhận thấy trong nhiều dự án tại cộng đồng của dự án SEA-UEMA nơi phụ nữ thường làm rất nhiều công việc tự nguyện cho cộng đồng. Thông thường, sự tham gia của phụ nữ trong các công việc tự nguyện chỉ ra bằng chứng về sự tham gia của phụ nữ. Tuy nhiên, những tham gia này cần phải được phân tích cẩn thận nếu nó là một cách để trao quyền năng cho phụ nữ. Sự tham gia của phụ nữ trong các dự án QLMTĐT có thể không thay đổi địa vị thấp của họ trong xã hội. Địa vị thấp của phụ nữ được biểu hiện và được duy trì thông qua bạo lực chống lại phụ nữ. Nó thường được sử dụng như một “nguyên tắc” để giữ phụ nữ đúng ở vị trí của họ. Do đó, nó đã gây nên sự sợ hãi cho phụ nữ và khiến họ đi chệch hướng ra khỏi những chuẩn mực và mong đợi. Ở Yogykarta, 63% các hộ gia đình đã xảy ra trường hợp đánh đập vợ, và tình trạng này thậm chí còn tồi tệ hơn nếu người vợ hoàn toàn không đi làm ở nhà làm việc nhà (Sumiarni và Arum 2007). Điều này chỉ ra rằng nếu phụ nữ bị phụ thuộc kinh tế vào chồng họ, sự lựa chọn của họ sẽ rất hạn chế. Họ không có sự lựa chọn nào nhưng vẫn phải tiếp tục các quan hệ không tốt đẹp. Ở Đông Timo, 50% phụ nữ bị bạo lực trong vòng một năm qua nhưng chỉ có 15% các trường hợp được ghi lại và báo cáo. Điều này chỉ ra những con số chỉ là bề nổi và vấn đề thực sự có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều (Robertson, 2007). Sự tham gia hạn chế của phụ nữ sẽ thực sự trở thành vấn đề. Sự tham gia của họ sẽ liên quan trực tiếp đến sự hiệu quả của dự án, như Wendy Wakeman (1995) đã trích dẫn nghiên cứu của Deepa Narayan hơn 100 dự án cung cấp nước ở khu vực nông thôn. Những trường hợp được xem là thành công cũng chỉ ra sự hiệu quả của dự án không phải là do lao động tự nguyện của phụ nữ, nhưng bởi vì do sự tham gia của phụ nữ, việc thiết kế của dự án đã thay đổi. UNDP (2003:60) đã báo cáo về một trường hợp ở Indonesia, nơi một nhóm phụ nữ đã chỉ ra được những vấn đề sai trong việc nghiên cứu và đưa những nhu cầu của phụ nữ vào chương trình cũng như thành lập các ủy ban để tham gia vào việc thiết kế hệ thống cung cấp nước mới. Enabor và các đồng nghiệp (1998) đã ghi lại kinh nghiệm ở khu nhà ổ chuột về một dự án đã được xây dựng để phụ nữ có thể kiểm soát và quản lý đất. Phụ nữ đã thực hiện chương trình và huy động được sự tham gia của nam giới và nam giới. Nhóm làm việc liên cơ quan về Giới và nước đã báo cáo về chương trình vận động Aqua-Danone ở Indonesia, phụ nữ đã tham gia một cách hiệu quả trong việc chia sẻ thông tin với gia đình và 11 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  13. thông qua mạng lưới không chính thức và nam giới trong việc chia sẻ thông tin ngoài gia đình và thông qua mạng lưới chính thức. Thông qua sự tham gia trong chương trình dự án vận động, chia sẻ những thông tin tập trung vào mảng vận động và thảo luận những vấn đề một cách hiệu quả với các thành viên khác. Môi trường xã hội/chính trị và QUAN HỆ GIỚI toàn cầu hoá Những khác biệt giới trong ảnh hưởng từ sự xuống cấp Phân công lao của MTĐT động theo giới Sự khác biệt giới trong việc Tiếp cận và kiểm tíêp cận đến các dịch vụ lien soát nguồn lực quan đến môi trường Địa vị của phụ nữ Những khác biệt giới trong trong gia đình và động cơ và khả năng tạo nên sự XH thay đổi Các quy tắc Nhằm trao quyền cho phụ nữ thông qua các dự án QLMTĐT, sẽ rất quan trọng trong việc xem xét vai trò của phụ nữ được xem xét như thế nào trong từng dự án. Thậm chí nếu họ cùng làm trên cùng một lĩnh vực tái sản xuất, cách trình bày và nhận thức về sự đóng góp của họ sẽ gây ảnh hưởng lên địa vị của họ trong gia đình và cộng đồng. Ví dụ, nếu công việc của phụ nữ được nhìn nhận là một phần công việc thêm vào các công việc gia đình, nó sẽ không tạo nên sự khác biệt gì về địa vị của họ và chỉ làm tăng thêm gánh nặng cho họ. Nhưng nếu một cách khác, nếu điều đó được nhìn nhận là công việc chính thức của cộng đồng với vai trò lãnh đạo, điều đó sẽ thấy được địa vị của họ trong gia đình và cộng đồng. Thậm chí việc tham gia của phụ nữ vào hoạt động của cộng đồng có thể hạn chế ở cấp cao, và ở một số nơi, phụ nữ đã nhìn nhận như là một người lãnh đạo gia đình và cộng đồng. Ở Indonesia, một nhóm phụ nữ ở cộng đồng đã lãnh đạo một dự án quản lý chất thải rắn. Ở Penang, những người lãnh đạo nữ đã thực hiện thành công việc thực hiện một mô hình về quản lý chất rắn đã có từ trước. (Khor, 2006). Những người phụ nữ thu lượm phế thải ở Phnom pênh 12 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  14. đã cùng nhau họp và cải thiện hệ thống thoát nước mưa và điều kiện vệ sinh ở nơi làm việc (Kusakabe, 2006). Điều phổ biến ở những trường hợp này đó là định nghĩa về phụ nữ và công việc của phụ nữ đã thay đổi. Phụ nữ sẽ không còn được nhìn nhận như là những người nghe tuân thủ và thực hiện mà là những nhà lãnh đạo. Phụ nữ không còn bị nhìn nhận là những người thu lượm phế thải bị động mà còn là những người quản lý thị trường. Công việc thu lượm rác của phụ nữ không còn được nhìn nhận là việc thêm vào công việc gia đình của họ nhưng còn là một dự án về quản lý chất thải rắn cho cộng đồng của họ. KHUNG PHÂN TÍCH GIỚI TRONG VIỆC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NAM Á Tổng quan lý thuyết về giới và QL MT ĐT tập trung vào khu vực Châu á, đặc biệt là khu vực ĐNA đã chỉ ra những lĩnh vực chính sau: 1. Những tác động khác biệt giới do sự xuống cấp của môi trường đô thị. 2. Những khác biệt giới trong việc tiếp cận đến các dịch vụ liên quan đến môi trường đô thị và, 3. Khác biệt giới trong động lực và khả năng trong việc tạo nên những thay đổi. Những ảnh hưởng khác biệt giới do sự xuống cấp của môi trường đô thị Như một kết quả của việc phân công lao động theo giới, phụ nữ và nam giới nghèo thường phải đối mặt với những loại ô nhiễm khác nhau. Lý do chính của những tác động khác biệt giới này là sự phân công lao động giới cách truyền thống, sự phân công này đã định ra vai trò của phụ nữ và nam giới trong công việc hàng ngày. Do quan điểm của xã hội thì phụ nữ và nam giới được phân công những nhiệm vụ khác nhau và sự mong đợi của xã hội với họ là khác nhau. Do đó, công việc của họ trong xã hội rất đa dạng do các vai trò và trách nhiệm khác nhau và điều đó tạo nên những khác biệt giới trong việc đối mặt với những nguy cơ. Phụ nữ làm việc ở gia đình có thể bị ảnh hưởng bởi những quá trình công nghiệp liên quan trong quá trình sản xuất. Cảnh sát giao thông thường là nam giới, do đó họ cũng có nguy cơ cao với ô nhiễm môi trường. Những người bán dạo trên đường phố, chủ yếu là phụ nữ phải kiếm sống dọc theo con phố cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng do ô nhiễm và bụi. Ngoài những nguy cơ sức khỏe ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ và nam giới, phụ nữ thường bị tăng khối lượng công việc vì họ thường là người chăm sóc người ốm trong gia đình. Có trẻ em hoặc người già mắc bệnh sen suyễn hoặc đi ngoài cũng có nghĩa là phụ nữ phải ở nhà để chăm sóc người ốm và điều này làm họ mất các cơ hội tăng thu nhập. 13 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  15. Lý do thứ hai cho những ảnh hưởng khác biệt giới chính là do sự khác biệt trong việc tiếp cận và quản lý các nguồn lực. Tính dễ bị tổn thương do ô nhiễm thường biểu hiện như là một vấn đề về tầng lớp như là người nghèo thường ít có khả năng trong việc chống lại ô nhiễm. Rất nhiều phụ nữ và nam giới không có sự lựa chọn nào khác và buộc phải làm việc trong điều kiện ô nhiễm. Tuy nhiên, cần chú ý rằng nữ giới thường ít được tiếp cận đến các nguồn lực hơn nam giới, đặc biệt là phụ nữ làm chủ hộ gia đình ở nông thôn. Phụ nữ thường ở những vị trí mà họ khó có thể bảo vệ bản thân họ. Những doanh nghiệp do nữ làm chủ thường sử dụng những máy móc không hiệu quả, cũ kĩ và ô nhiễm. “Mặc dù những công nghệ bảo vệ môi trường có trên thị trường, nhưng phụ nữ không tiếp cận được tín dụng để mua những công nghệ này hoặc không biết sử dụng công nghệ một cách hiệu quả và an toàn’ (UNIDO, 1995:1). Lý do thứ ba cho những tác động giới khác nhau đó là do dự hạn chế di chuyển của phụ nữ. Bose (1999) đã ghi lại rằng sự hạn chế và tách biệt không gian đã trực tiếp liên quan đến cơ hội công việc cho phụ nữ ở khu nhà ổ chuột ở Calculta. Phadke (2007) và Ranade (2007) cũng chỉ ra rằng phụ nữ và nam giới định vị và xác định họ ở những nơi và khu vực cụ thể và hạn chế/di chuyển ở những khu vực công cộng ở Mumbai. Sự di chuyển của phụ nữ và nam giới, cũng như suy nghĩ về không gian của họ cũng có tác động lên sự tham gia của họ đến môi trường đô thị và việc quản lý môi trường này. Nếu họ coi những không gian này là không gian của họ, tình hình về vệ sinh có thể được thay đổi tốt hơn. Người ta quan sát ở các khu nhà ổ chuột phát hiện ra rằng mặc dù xung quanh ngoài ngôi nhà rất bẩn nhưng trong nhà được lau dọn sạch sẽ. Những người chịu trách nhiệm về vệ sinh quan niệm rằng ngôi nhà là không gian của bản thân họ, trong khi bên ngoài là khu vực công cộng và đó là nơi họ không gây được ảnh hưởng. Trong công việc của mình về cộng đồng rác thải về sự án mìn đã phải hiện ra rằng mọi người tham gia vào những vấn đề xã hội như là những sở thích riêng. Tuy nhiên cứu này không tách biệt giới tính, nhưng một điều quan trọng cần ghi lại đó là dự án này có thể được định ra để thiết lập nên mối liên hệ quan trọng giữa sở thích cá nhân và những quan tâm xã hội và sự phát triển của cơ chế chia sẻ thông tin hiệu quả. Sẽ có thể xây dựng một quan niệm rằng quản lý rác thải ở cộng đồng không phải chỉ là trách nhiệm của mọi người mà còn là lợi ích của họ, từ đó có thể mở rộng quan niệm của nhiều người rằng họ chỉ làm những gì mà họ quan tâm. Ở Dili, Đông Timo, phụ nữ rất khó trong việc tiếp cận đến nơi thu lượm rác vì con đường đến đó không an toàn. 4 Sự hạn chế sự di chuyển của phụ nữ có thể hạn chế cơ hội việc làm, và làm cho họ phải làm những công việc như thu lượm rác. Những không gian đô thị có thể nguy hiểm cho phụ nữ, và những lo lắng về sự an toàn có thể làm ảnh hưởng đến việc họ sẽ làm gì nhằm đảm bảo sự an toàn cho họ. Nhưng cần phải chú ý rằng lý do chính của việc hạn chế sự di chuyển của phụ nữ chính là sự không an toàn. Do đó, cái chúng ta cần phải chú ý ở đây là thiếu sự di chuyển và thiếu sự an toàn. Phadke (2007) đã lập luận rằng, “bảo vệ” phụ nữ chống lại sự không an toàn                                                              4 Nói chuyện cá nhân với Garbielle Groves 14 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  16. sẽ giúp họ tiếp cận đến những không gian công cộng, và điều quan trọng là phụ nữ phải đòi hỏi quyền của mình khi bị nguy hiểm ở những nơi công cộng và xã hội phải khuyến khích họ làm điều này. SỰ KHÁC BIỆT GIỚI TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Dựa trên phân công lao động theo giới và sự không cân bằng trong khối lượng công việc và lợi ích, phụ nữ và nam giới có những nhu cầu khác nhau trong việc làm cho cuộc sống của họ sẽ dễ dàng và tốt hơn. Ở Karachi, Pakistan, phụ nữ thường quan tâm đến vấn đề vệ sinh hơn chồng của họ, và có thể thuyết phục chồng họ nhằm chia sẻ một phần chi phí do cấu phần dự án về vệ sinh (Fong và các đồng nghiệp, 1996). Không chỉ có phụ nữ có nhu cầu lớn hơn đối với các dịch vụ môi trường đô thị, họ cũng có khó khăn nhiều hơn trong việc tiếp cận đến các dịch vụ này. Phụ nữ thường được giáo dục ít hơn nam giới, và có ít cơ hội trong việc cải thiện kĩ năng, và nhìn chung, họ nhận được ít lương hơn nam giới. Phụ nữ thường được chỉ định những công việc mà phụ nữ thống trị, có ít cơ hội hơn hoặc không được mong muốn di chuyển nhiều, và thường không được sở hữu đất. Những sự khác biệt giới trong việc tiếp cận vác kiểm soát các nguồn lực (nhân lực, vật chất, tài chính và xã hội…) ảnh hưởng lên sự tiếp cận của phụ nữ lên các dịch vụ đô thị. Với trình độ giáo dục thấp hơn, ít di chuyển và sự xa lánh, phụ nữ thường ít tiếp cận thông tin cũng như những liên kết xã hội. Thiếu nguồn lực cũng dễn đến việc khả năng thấp của phụ nữ trong việc mua/trả tiền cho các dịch vụ. Thực tế, những gia đình nghèo thường khó khăn trong việc trả tiền dịch vụ cho việc cung cấp các dịch vụ khi được tư nhân hóa. Trang thông tin điện tử về giới và nước (www.genderndwater.ovarg xem ngày 18 tháng 11 năm 2007) báo cáo rằng ở Chile, dịch vụ nước và vệ sinh đã được tư nhân hóa từ năm 1990, phí sử dụng nước của người sử dụng đã tăng 314% từ năm 1989 đến năm 2003. Trang web này cũng nói rằng nhằm tăng tối đa lợi ích và bù đắp các chi phí, các công ty cá nhân đã tăng phí lên và cắt giảm lương và công việc. Phụ nữ và những người công nhân không có kĩ năng cũng dễ bị tổn thương khi lương và công việc bị cắt. Một điều cần chú ý đó là những hộ gia đình do phụ nữ làm chủ ở nhiều thành phố trong khu vực. Ở nhiều trường hợp, phụ nữ chủ gia đình thường nghèo hơn những hộ gia đình do nam giới làm chủ. Ở Penang, Malaysia , những tác động về nghèo đói đối với những gia đình do nữ làm chủ là cao hơn (16%) khi so sánh với những hộ gia đình do nam giới làm chủ (75%) (Hassan, 2005). Ở một vài thành phố, việc di cư đã tăng lên trong những năm qua. Cả phụ nữ và nam giới di cư có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ. Một vài người di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn có đăng ký hộ khẩu ở nông thôn, và điều này gây ra những khó khăn cho họ trong việc đòi hỏi quyền của mình về những cơ sở vật chất tại nơi họ thực sự cư chú. Ở Thái Lan, chỉ có thể 15 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  17. tiếp cận 30 bath tiền chi phí sức khỏe nếu đăng ký hộ khẩu 5 . Không phải là công dân chính thức đã khiến nhiều người công nhân nhập cư không tiếp cận được các dịch vụ sức khỏe tối thiểu. 6 Cơ hội việc làm được tạo nên trong lĩnh vực quản lý môi trường đô thị. Những người phụ nữ nghèo cũng ít khi nắm được những cơ hội việc làm trong lĩnh vực QLMT ĐT vì họ phải hỗ trợ cho gia đình và có ít cơ hội cho họ. Muller và Schienberg đã ghi lại rằng phụ nữ vượt qua những rào cản do khoảng cách và văn hóa nhằm tạo ra những công việc tạo công ăn việc làm như thu lượm rác. Phụ nữ đã có những nỗ lực lớn trong những công việc liên quan đến rác hơn nam giới để tìm ra cơ hội việc làm. Fong và các đồng nghiệp (1996:19) báo cáo về thành công của hợp tác xã của phụ nữ đã quản lý những cây tái sản xuất rác thành phố nhằm sản xuất và bán phân từ rác này cho người dân địa phương để trồng cây ở Mexico. Mặc dù thu nhập là rất quan trọng cho phụ nữ, nhưng những nhu cầu của họ thường không được quan tâm. Phụ nữ thường bị loại trừ khỏi công việc nếu chính quyền thành phố quyết định cần có thêm công nhân được trả tiền trong việc dọn dẹp. Gupta đã phát hiện ra rằng trong trường hợp này, 70% những người được thuê là nam giới. Khi những công nghệ mới được giới thiệu, việc vận hành thường được giao cho nam giới. Trong các dự án nước và vệ sinh ở Thái Lan và Cambodia, khi máy lọc nước được lắp đặt, nhiều công việc được phân công cho người địa phương. Do phụ nữ làm rất nhiều công việc tình nguyện trong cộng đồng, nhiều công việc không được trả lương mới được giao cho phụ nữ như là một sự thêm vào ngoài công việc gia đình. Điều này cũng có nghĩa là tăng công việc không được trả lương mặc dù mọi người trong cộng đồng đều được hưởng lợi ích từ việc môi trường được cải thiện trong cộng đồng. Sự tự do này là một vấn đề. Phụ nữ thường cung cấp những chia sẻ bất bình đẳng trong công việc cộng đồng do vai trò của phụ nữ là những người mẹ tốt, người vợ tốt và công dân tốt. SỰ KHÁC BIỆT GIỚI TRONG ĐỘNG CƠ VÀ KHẢ NĂNG TẠO NÊN SỰ THAY ĐỔI Như đã thảo luận ở phần trước, phụ nữ thường có ít vai trò trong việc ra những quyết định ở khu vực công cộng so với nam giới. Do họ thường ở nhà nên phụ nữ thường được nhìn nhận như là sự lựa chọn có lý cho việc giám sát môi trường và giáo dục sức khỏe. Phụ nữ thường tham gia vào các dự án giáo dục cộng đồng vì họ ở nhà thường xuyên hơn 7 Do quan niệm khác nhau về những vai trò được xã hội chấp nhận, người ta thường thấy kiến thức của phụ nữ trong lĩnh vực môi trường đô thị thường không được lắng nghe như của nam giới. Do kết quả của sự phân công lao động, phụ nữ và nam giới thường cần những kiến thức và                                                              5 Điều này đã được sửa chữa nhưng vẫn còn nhiều sự hiểu nhầm về quyền được bảo hiểm sức khoẻ 6 Những người di cư đăng ký từ các nước láng giềng của Thái Lan có thể tiếp cận đến các dịch vụ sức khoẻ và phải trả 1900 Bath cho dịch vụ này hàng năm 7 Phỏng vấn với nhóm nữ lãnh đạo ở khu vực dự án của Quỹ Forward 16 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  18. kĩ năng khác nhau. Ví dụ, phụ nữ thường nhận thức được điều kiện của các điểm thu rác và nơi đổ rác thải gia đình do họ có trách nhiệm đi đổ rác. Muller và Schienberg đã báo cáo rằng trong khi nam giới thích một hệ thống thoát nước mưa phức tạp, phụ nữ lại thích một hệ thống đơn giản để dễ vận hành. Ở những tầng lớp trung lưu và tầng lớp giàu hơn thì những người giúp việc nội trợ gia đình lại có nhiều kiến thức về những thiết bị rác cho cộng đồng. Do đó, cho các hoạt động quản lý chất thải rắn cộng đồng, sự tham gia của phụ nữ và những người giúp việc nội trợ trong gia đình là quan trọng. Trong những trường hợp ô nhiễm khí, phụ nữ, những người là mẹ của những đứa trẻ ốm yếu có thể sẽ rất nhạy cảm với các vấn đề ô nhiễm khí hơn những người khác. Tất cả những ví dụ đó chỉ ra tầm quan trọng của việc hiểu và chấp nhận những kiến thức của phụ nữ trong lĩnh vực môi trường. Mặc dù phụ nữ có đủ kiến thức và có vai trò lớn trong việc quản lý môi trường đô thị, nhưng họ thường không có những cơ hội để tham gia vào việc ra quyết định trong các quá trình QLMTĐT. Mặc dù phụ nữ có nhiều kiến thức và có nhu cầu lớn hơn trong việc cải thiện môi trường đô thị, nhưng họ lại thường thiếu nguồn lực để tạo nên những sự thay đổi. Trang thông tin của Ngân hàng thế giới về ô nhiễm khí trong nhà đã liệt kê các cách nhằm cải thiện ô nhiễm khí trong gia đình: ví dụ như thiết kế ống khói tốt hơn, hệ thống thông hơi tốt hơn, chất đốt sạch hơn, tấm chắn ở nhà để cách biệt nơi nấu ăn và nơi ngủ/sống, và để trẻ em tránh khỏi khói. Những cách can thiệp này là những biện pháp hiệu quả nhằm giảm ô nhiễm trong nhà nhưng tất cả những sự thay đổi cần là phân bổ nguồn lực trong gia đình cũng như sự thay đổi hành vi và vai trò của phụ nữ và nam giới. Nhằm cung cấp nguồn lực cho phụ nữ để tạo ra sự thay đổi, Ngân hàng thế giới đã rất ủng hộ việc xây các lò sưởi trong toà nhà như là một cơ hội tạo công ăn việc làm cho phụ nữ. SEWA cũng đã thành công trong việc cải thiện dịch vụ cung cấp nước thông qua việc kết nối với các chương trình phát triển doanh nghiệp vi mô và nâng cao năng lực cho phụ nữ. Thời gian tiết kiệm được từ lấy nước có thể sử dụng cho công việc tạo thu nhập, và điều này sẽ giúp giảm nghèo ở những vùng khô hạn (tr 2488). Bennett (1998) đã ghi lại rằng thậm chí khi phụ nữ không tham gia chính thức vào những cơ quan ra quyết định nhưng họ vẫn có thể gây ảnh hưởng chính sách bằng việc làm cho vấn đề dễ dàng nhận thấy. Bà đã miêu tả mộ trường hợp ở Mexicô nơi một nhóm phụ nữ đã có chính sách nước quốc gia bằng việc tiếp tục thử nghiệm và làm cho vấn đề trở nên dễ dàng nhìn nhận. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN Những thảo luận trên đã được tóm tắt trong Sơ đồ 1. Những nghiên cứu và những trường hợp trước đó đã chỉ ra những yếu tố giới trong QLMTĐT có thể được chia ra thành những vấn đề lớn 1) Sự dễ bị tổn thương mang yếu tố giới, 2) sự tiếp cận mang yếu tố giới đối với các dịch vụ/cơ hội công việc/tạo thu nhập, 3) những khả năng mang yếu tố giới nhằm tạo nên sự thay đổi. Những điều này đều do quan hệ xã hội ảnh hưởng, mà điều này lại được quy định bởi 1) sự phân 17 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  19. công lao động theo giới, 2) tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, 3) địa vị của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng. Sự bất bình đẳng trong ba lĩnh vực trên đã duy trì cái mà Kabeer gọi là “nguyên tắc” cho việc tiến hành các hoạt động (Kabeer, 1999). Sự tổn thương mang yếu tố giới và tiếp cận đến dịch vụ cũng ảnh hưởng đến khả năng mang yếu tố giới để tạo nên sự thay đổi, là làm mạnh thêm hay thách thức những quan hệ giới hiện thời. Môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường xã hội cũng như sự toàn cầu hóa cũng sẽ ảnh hưởng đến vai trò, quan hệ và định nghĩa, giá trị của những hoạt động này. Điểm lợi thế của khung phân tích này là nó làm nổi bật những vấn đề đã được xác định trong các nghiên cứu trước đó, đặc biệt ở Châu Á và chỉ ra những kết nối để phân tính những vấn đề lien ngành giữa các hiện tượng giới và quan hệ giới. Điều quan trọng ở đây đó là sự nhấn mạnh đến sự tiếp cận và việc ra quyết định đối với các dịch vụ đô thị và các cơ hội tạo công ăn việc làm. Đây là sự khác biệt giữa khung phân tích giới tập trung ở nông thôn và môi trường nơi mà việc cung cấp dịch vụ và cơ hội công việc thường không ở phần phân tích, mặc dù có chính sách và cơ chế. Việc tổng quan các vấn đề giới trong quản lý môi trường đô thị, đặc biệt ở Đông Nam Á sẽ đưa cho chúng ra những nền tảng để đề xuất một khung phân tích dễ sử dụng. Như đã thảo luận trong phần mở đầu, tất cả các khung phân tích đều dựa trên những giá trị nhất định. Đây là khung nhấn mạnh đến phụ nữ và nam giới ở đô thị có thể làm gì để cải thiện cuộc sống và môi trường làm việc. Việc tập trung vào nâng cao năng lực, đặc biệt cho phụ nữ khiến họ có thể có những hành động. Do đó, cần tập trung chú ý vào việc làm thế nào để nhiều phụ nữ được trao quyền, hơn là việc làm thế nào dự án có thể sử dụng phụ nữ để làm cho dự án có hiệu quả hơn. Những cấu phần hiệu quả thường được quan tâm bởi những người thực hiện dự án, và họ tập trung nhiều vào kết quả và quản lý dựa trên kết quả. Do đó, khung này nỗ lực để cân bằng cách suy nghĩ này bằng việc trao quyền cho phụ nữ là một mục tiêu trung tâm, qua đó có thể đóng góp vào những kết quả tức thì của dự án dưới phạm vi của nó 8 . Một trong những khó khăn trong việc sử dụng khung này với những giá trị đã nếu trên đó là do khung phân tích này được xây dựng trên những kinh nghiệm đã có trước đó, nó không thể dẫn đến những can thiệp đã được làm trước đó. Ví dụ, trong dự án quản lý chất thải rắn dựa vào cộng đồng, phụ nữ thường được coi như là những lao động tình nguyện. Mặc dù sự tham gia này không làm cho sự đóng góp của họ dễ được nhìn thấy, nó không cần thiết dẫn đến việc vai trò của phụ nữ sẽ được xác định lại nhằm nhìn nhận đúng hơn. Đã có những trường hợp thành công nơi phụ nữ đã thoát khỏi những vai trò truyền thống như trường hợp ở Penang (Khor, 2006). Cần phải có một sự hiểu biết tốt hơn về quá trinh trong đó sự thay đổi nảy sinh.                                                              8 Một điều phố biến đó là khi có một nhận định về giới được đưa ra trong dự án, điều này thường bị bỏ qua với lý do rằng “Đây không phải là một dự án về giới”. Hẳn do đó, nếu dự án không có một mục tiêu mạnh mẽ về trao quyền cho phụ nữ, nó sẽ được coi là sự trở lại cho dự án. May là điều này không phải lúc nào cũng xảy ra. Do đó, khung này đặt giới vào điểm trung tâm nhằm đặt bình đẳng giới là mục tiêu cuối cùng của việc can thiệp vào dự án. 18 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
  20. Trong mối lien quan này, cách tiếp cận mà Phadke (2007) và Ranade (2007) đã thực hiện để tìm hiểu sự di chuyển và ý nghĩa đi kèm tới những nơi có những quan điểm quan trọng để khám phá. Phân tích giới trong QLMTĐT vẫn còn trong quá trình sơ khai để nhìn để xem xét về tính dễ bị tổn thương và sự tham gia của phụ nữ. Đây là thời điểm quan trọng để làm sâu hơn những phân tích giới để hiểu về quá trinh trao quyền cho phụ nữ qua các dự án QLMTĐT để phụ nữ không còn bị đóng đinh với sự dự án về tái sản xuất, trong đó coi phần tham gia của phụ nữ như là một phần thêm vào công việc gia đình. 19 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể
nguon tai.lieu . vn