Xem mẫu

  1. Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Lê Thị Thúy Nga1 Tóm tắt: Nguyên tắc suy đoán vô tôi là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự, được thể hiện trong pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia. Suy đoán vô tội có ý nghĩa quan trọng vê mặt khoa học cũng như thực tiễn với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Bài viết đề cập tới thực trạng và một số giải pháp bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tiếp cận từ hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Từ khóa: Suy đoán vô tội, tố tụng hình sự, tranh tụng, xét xử sơ thẩm. Nhận bài: 21/9/2020; Hoàn thành biên tập: 25/9/2020; Duyệt đăng: 21/12/2020. Abstract: Presumption of innocence principle is one of important principles in criminal procedure which is shown in international law and laws in different countries. This principle has important meaning in terms of scientific aspect as well as reality with foundation role and guideline for all activities of criminal procedure. This article mentions reality and some solutions to ensure presumption of innocence in first-instance hearing stage approached from professional activities of judges, prosecutors and lawyers. Keywords: Presumption of innocence, criminal procedure, litigation, first-instance hearing. Date of receipt: 21/9/2020; Date of revision: 25/9/2020; Date of Approval: 21/12/2020. Để xác định được sự thật của vụ án hình sự, quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy chứng minh theo quy định tại Điều 15 Bộ luật tố đoán về tính hợp pháp của hành vi, nghĩa là hành tụng hình sự (BLTTHS) làm rõ những vấn đề vi của cá nhân phải luôn luôn được coi là hợp buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 85 pháp khi chưa chứng minh được điều ngược lại3. BLTTHS. Theo đó, trong quá trình tiến hành tố Suy đoán vô tội được coi là nguyên tắc tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án “vàng”, là “nét son” trong TTHS, một thành tựu phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ định sự thật của vụ án. Người bị buộc tội có quyền con người và chứng minh trong tố tụng quyền nhưng không buộc phải đưa ra chứng cứ, hình sự. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong tài liệu, đồ vật để chứng minh mình vô tội. Người Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc bị buộc tội có quyền khai báo hoặc không khai tế về Quyền chinh trị, dân sự năm 1966 của Liên báo (quyền im lặng). Đây là những nội dung cốt hợp quốc. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước lõi của nguyên tắc suy đoán vô tội, theo triết lý đã cung đã ghi nhận suy đoán vô tội là nguyên tắc tồn tại từ thời cổ xưa “ai đưa ra lời buộc tội thì cơ bản trong luật tố tụng hình sự. Ở nước ta, người đó phải chứng minh”2. Ở phạm vi bao quát nguyên tắc suy đoán vô tội được “gọi tên” trong hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một BLTTHS năm 2015 trên cơ sở quy định tại nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối Khoản 1 Điều 131 Hiến pháp năm 2013 và kế 1 Tiến sỹ, Giảng viên Trưởng Khoa Đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp. 2 PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đoán vô tội: Nét son trong tố tụng,https://plo.vn/phap-luat/suy-doan-vo-toi-net- son-trong-to-tung-611793.html, truy cập ngày 04/6/2020. 3 Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở Việt Nam, Tạp chí TAND điện tử https://tapchitoaan.vn/bai- viet/phap-luat/thuc-hien-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam-2, truy cập ngày 20/5/2020.
  2. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP thừa nội dung của Điều 9 BLTTHS năm 2003. ngày càng được nâng cao góp phần vào việc bảo Thực ra, đây không phải là một nguyên tắc hoàn đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Nhìn toàn mới của luật tố tụng hình sự Việt Nam, mà chung, công tác xét xử các vụ án hình sự trong được kế thừa nội dung và quy định chính xác, những năm qua cơ bản đảm bảo đúng người, chặt chẽ hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 thì: phiên tòa tiếp tục được chú trong theo hướng “Người bị buộc tội được coi là không có tội thực chất, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đã cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ đạt được, thực tiễn xét xử vụ án hình sự cũng cho tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội thấy còn có những biểu hiện vi phạm nguyên tắc của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. suy đoán vô tội từ phía các chủ thể như thẩm Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn phán, kiểm sát viên, luật sư. Cụ thể là: cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ - Từ phía thẩm phán: Trong một số trường luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm hợp, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị ngăn chặn tạm giam chưa đúng. Việc Tòa án thay buộc tội không có tội”. đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam không nhiều dù Nguyên tắc suy đoán vô tội đã được pháp luật một số trường hợp việc tạm giam trong giai đoạn tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận và áp dụng xét xử không thật sự cần thiết. Tại phiên tòa hình trong nhiều năm qua, thể hiện tính dân chủ, sự sơ thẩm, thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa khách quan của tố tụng hình sự. Mặc dù vậy, việc làm tốt thủ tục bắt đầu phiên tòa, vẫn có tư tưởng áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng coi đây là một thủ tục hành chính, mặc dù nó rất hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm quan trọng khi xác định tuổi, nghề nghiệp, nơi nói riêng, còn có những hạn chế nhất định đòi cư trú, tiền án, tiền sự, ngày bắt, ngày tha, hoãn hỏi tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật tố phiên tòa hay xét xử… Khi xét hỏi, Hội đồng xét tụng hình sự cho phù hợp và nâng cao chất xử đôi khi còn hỏi mang tính chất “mớm cung”, lượng, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ áp đặt, thể hiện định hướng buộc tội. những người tiến hành tố tụng, người bào chữa, Ví dụ: Có phiên tòa chủ tọa phiên tòa hỏi bị bảo vệ cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự cáo nhiều lần theo hướng xác định bị cáo đã trong vụ án. phạm tội như: “Bị cáo có ân hận không?”, 1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc suy “Chắc là bị cáo không thấy chứ xe số tự động đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thấy thì đánh lái sang phải sẽ không đụng rồi”, vụ án hình sự “Bằng lái bị cáo học ở đâu, bằng lái của bị cáo Trong thời gian vừa qua, các cơ quan tiến học hoàn toàn chứ không phải mua, đúng không? hành tố tụng đã có nhiều nỗ lực giải quyết các vụ Có sát hạch hoàn toàn, đúng không?”, “Chắc án theo đúng quy định pháp luật, tránh oan sai. chắn bị cáo không nói ra nhưng tôi nghĩ là bị cáo Theo đó, cơ quan điều tra đã tích cực chấn chinh rất khổ tâm vì bị cáo cũng có con nhỏ, cũng có khắc phục tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều gia đình mất đi một người cha rất đau khổ”4. tra; Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ hơn việc bắt - Từ phía kiểm sát viên: Tại phiên tòa, vẫn người, khởi tố, điều tra, bảo đảm truy tố đúng còn trường hợp kiểm sát viên chỉ quan tâm đến người, đúng tội, đúng pháp luật; Tòa án nhân dân việc buộc tội, không chú trọng đúng mức đến đã chú trọng hơn trong công tác xét xử, đảm bảo việc gỡ tội cũng như đến việc phát hiện kịp thời hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, những vi phạm của Toà án và những người tham trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của luật sư cũng gia tố tụng khác để đề ra yêu cầu khắc phục hoặc 4 Thanh Tùng, Không được xét hỏi “mớm cung”, https://plo.vn/plo/khong-duoc-xet-hoi-mom-cung-326140.html.
  3. Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm tuy có phát hiện vi phạm nhưng do nể nang, ngại làm rõ chứng cứ có lợi cho thân chủ, đặc biệt là va chạm, né tránh không yêu cầu khắc phục, các chứng cứ chứng minh thân chủ không phạm không kháng nghị, kiến nghị...5. Trong phần tội; còn có biểu hiện “xuôi chiều” theo quan điểm tranh luận, còn xảy ra tình trạng kiểm sát viên ít buộc tội của Viện kiểm sát, chỉ xét hỏi nhằm làm chú ý đến phát biểu của người bào chữa, ý kiến rõ một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy Trong một số vụ án, lời bào chữa của luật sư có đoán vô tội như nêu trên do nhiều nguyên nhân những nội dung mâu thuẫn với quan điểm truy khác nhau, từ bất cập của các quy định pháp luật tố của Viện kiểm sát nhưng kiểm sát viên không đến ý thức, năng lực của những người tiến hành tranh luận làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tố tụng. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là từ chưa tập trung vào những vấn đề đang còn nhiều quan niệm, thói quen giải quyết vụ án trên cơ sở ý kiến khác nhau để đưa ra chứng cứ, lập luận cụ “án tại hồ sơ”, chưa chú ý đến các chứng cứ, lời thể mà nêu chung chung và khẳng định là có đủ khai tại phiên tòa, ý kiến của luật sư bào chưa. căn cứ buộc tội như cáo trạng truy tố. Với chế độ Mặc dù BLTTHS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung thủ trưởng của Viện kiểm sát, kiểm sát viên ngoài nhằm đề cao tính dân chủ, minh bạch, khách việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn quan trong hoạt động của các cơ quan tiến hành phải tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm tố tụng nhưng nhiều người tiến hành tố tụng vẫn sát theo quy chế ngành kiểm sát. Mặc dù Điều còn tư tưởng luôn nhìn bị can, bị cáo là người 319 BLTTHS quy định “Kiểm sát viên rút quyết phạm tội. Bên cạnh đó, những sai sót từ giai đoạn định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên điều tra, việc điều tra không khách quan đã gây tòa”; Điều 320 BLTTHS quy định “ Sau khi kết không ít khó khăn cho hoạt động xét xử. thúc việc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày luận tội, 2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì phải rút nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị xử sơ thẩm vụ án hình sự cáo không phạm tội” nhưng trong thực tiễn xét 2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng xử, việc kiểm sát viên rút một phần hoặc toàn bộ hình sự quyết định truy tố rất ít khi xảy ra. Nếu thấy Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán không đủ căn cứ buộc tội, Kiểm sát viên sẽ căn vô tội, cần hoàn thiện đồng bộ các quy định và cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 280 BLTTHS bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của tố tụng để đề nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung hình sự. Việc sửa đổi các quy định của BLTTHS mặc dù đây là quy định về trả hồ sơ trong giai nhằm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong đoạn chuẩn bị xét xử. Nếu Tòa án chấp nhận đề giai đoạn xét xử cần theo định hướng bảo đảm nghị này, trả hồ sơ lại cho Viện kiểm sát thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đặc biệt là Viện kiểm sát sẽ đình chỉ vụ án nếu thấy không tạm giam vừa phù hợp vừa được kiểm soát chặt đủ chứng cứ buộc tội thay vì theo đúng quy chẽ; tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào định là Tòa án xét xử và ra bản án tuyên bố bị chữa tại phiên tòa. Một số gợi ý sửa đổi các quy cáo không phạm tội. định của BLTTHS hiện hành theo định hướng - Từ phía luật sư: Luật sư, với tư cách là này như sau: người bào chữa cho người bị buộc tội, thực hiện Thứ nhất, sửa đổi Điều 13 về nguyên tắc suy các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định đoán vô tội cho chính xác. Đoạn 2 Điều 13 tại Điều 73 BLTTHS. Tại phiên tòa, một số BLTTHS quy định “Khi không đủ và không thể trường hợp, luật sư chưa tập trung xét hỏi nhằm làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình 5 Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thâm án hình sự tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học
  4. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, định người bào chữa có quyền “Đề nghị cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng luận người bị buộc tội là không có tội”. Điều luật cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại dùng chữ “và” trong đoạn 2 là không chính xác tài sản”. Như vậy, Luật sư có quyền đề nghị cơ vì không đủ căn cứ buộc tội phải đồng nghĩa với quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giám định, “không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội”. Do đó, định giá tài sản lần đầu không? Thực tế, các luật chỉ cần không đủ căn cứ buộc tội thì cơ quan có sư bào chữa vẫn thực hiện quyền yêu cầu giám thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm định, định giá tài sản lần đầu nhưng trên cơ sở căn quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị cứ vào điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS “Đề buộc tội không có tội. nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định Thứ hai, sửa đổi quy định về thẩm quyền áp tại Bộ luật này….”, trong đó hoạt động tố tụng dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam trong bao gồm cả giám định, định giá lần đầu, giám giai đoạn xét xử. định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo quy định tại Điều 45 BLTTHS, Thẩm Theo chúng tôi, cần sửa đổi điểm k Khoản 1 Điều phán được quyền ra các quyết định áp dụng biện 73 BLTTHS theo hướng người bào chữa có pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện quyền “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành pháp tạm giam. Việc quyết định áp dụng, thay tố tụng thu thập chứng cứ, giám định, giám định đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thuộc thẩm bổ sung, giám định lại, định giá, định giá lại tài quyền của Chánh án, Phó Chánh án (điểm a, sản”. Khoản 2 Điều 44 BLTTHS). Quy định này theo - Điểm h Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy chúng tôi không thật là phù hợp, hạn chế quyền định luật sư có quyền “thu thập chứng cứ”. Đây của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi nghiên được coi là điểm mới của BLTTHS, nhằm bảo cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán xét thấy không cần đảm cho người bào chữa thực hiện tốt hơn việc thiết phải thay đổi biện pháp ngăn chặn để áp bảo chữa cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, gần dụng biện pháp tạm giam thì cũng không thể giải như chưa có những biện pháp bảo đảm cho người quyết kịp thời mà phải đề nghị Chánh án hoặc bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ nên Phó Chánh án quyết định. Để việc áp dụng biện sự phối hợp của những cơ quan, cá nhân có liên pháp tạm giam được kịp thời, đúng căn cứ, bảo quan chủ yếu xuất phát từ quan hệ cá nhân của đảm phù hợp giữa người có điều kiện đánh giá về luật sư. Thực tế, khi luật sư đề nghị tiếp xúc, trao các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam và người đổi với bị hại, người làm chứng, người khác biết có quyền quyết định áp dụng biện pháp này, về vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân chúng tôi đề xuất quy định thẩm quyền của Thẩm cung cấp tài liệu, đồ vật, rất nhiều trường hợp phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong người được đề nghị từ chối. Điều này có thể xuất việc áp dụng biện pháp tạm giam đồng thời với phát từ nhiều nguyên nhân như không tin tưởng việc tăng cường kiểm tra, giám sát phát hiện vi luật sư, không muốn cung cấp, ngại mất thời phạm trong việc áp dụng biện pháp tạm giam của gian, ngại gặp rắc rối và quan trọng là không có chủ thể này. bất kỳ chế tài, ràng buộc nào đối với họ về trách Thứ ba, sửa đổi các quy định về quyền và nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật cho luật nghĩa vụ của người bào chữa. sư. Do đặc thù nghề nghiệp, luật sư đơn phương Điều 73 BLTTHS quy định về quyền và thực hiện các hoạt động nghề nghiệp nhằm bảo nghĩa vụ của người bào chữa. Theo đó, người vệ quyền lợi cho thân chủ nên thường gặp khó bào chữa có 14 quyền. Tuy nhiên, có một số quy khăn, bất lợi hơn trong việc tiếp cận, phát hiện và định chưa rõ ràng hoặc chưa đầy đủ ảnh hưởng thu thập các chứng cứ liên quan để phục vụ cho tới việc thực hiện quyền của luật sư. Cụ thể là: quá trình bào chữa. Về vấn đề này, PGS.TS. Trần - Điểm k, Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy Văn Độ chia sẻ: “Nếu người làm chứng từ chối
  5. Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm trả lời thì người bào chữa biết làm sao? Trong thực chất và hiệu quả cũng là bảo đảm thực hiện khi các cơ quan tố tụng hỏi thì họ bắt buộc có nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, cần có nghĩa vụ trả lời. Như vậy là chưa bình đẳng” và những tiền đề pháp lý nhất định đảm đảm nguyên “Nếu mở rộng quyền cho luật sư hỏi, đồng thời tắc tranh tụng như sự thừa nhận tư cách “các bên quy định người làm chứng có nghĩa vụ phải trả tranh tụng” giữa các chủ thể thực hiện chức năng lời thì cũng là một kênh thuận lợi để đảm bảo buộc tội, chức năng bào chữa và đảm bảo sự bình tính khách quan, toàn diện”6. Theo chúng tôi, đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể này; đảm những cơ chế hỗ trợ cho luật sư thực hiện quyền bảo sự độc lập của Tòa án với tư cách là chủ thể thu thập chứng cứ là cần thiết để quyền của luật thực hiện chức năng xét xử, “mọi yếu tố làm ảnh sư không chỉ là những “mỹ từ” trong luật. hưởng đến tính độc lập của Tòa án phải được loại Các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương bỏ” và “không thể để lẫn lộn giữa chức năng cũng cần nghiên cứu, ban hành văn bản quy định buộc tội với chức năng xét xử”7. Theo định cụ thể việc Luật sư tham gia tố tụng trong quá hướng này, cần sửa đổi các quy định BLTTHS trình giải quyết vụ án nói chung và trong giai như: đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng - Sửa đổi quy định về phân định các chủ thể nhằm bảo đảm để Luật sư thực hiện đúng, đủ và theo chức năng tố tụng thành các nhóm chủ thể thuận lợi các quy định của pháp luật hình sự, góp buộc tội, các chủ thể bào chữa. Tòa án và các chủ phần bảo đảm công tác điều tra, truy tố xét xử thể tố tụng khác thay vì theo vị thế tố tụng (người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng) như Thứ tư, sửa đổi các quy định nhằm tăng hiện nay. Việc thay đổi cơ cấu của BLTTHS về chủ cường hiệu quả tranh tụng trong xét xử. thể tố tụng hình sự như nêu trên là tiền đề để quy Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét định về địa vị pháp lý của mỗi nhóm chủ thể tố xử được bảo đảm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tụng hình sự phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc thể hiện sự thừa nhận quy luật tất yếu khách quan tranh tụng. là tính tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có lợi - Sửa đổi nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và ích đối lập nhau trong tố tụng hình sự: bên buộc xử lý vụ án hình sự (Điều 18) theo hướng bỏ quy tội và bên bào chữa (gỡ tội). Nguyên tắc tranh định về trách nhiệm khởi tố vụ án của Tòa án. tụng có những nội dung cốt lõi như sự bình đẳng Mặc dù có ý kiến cho rằng việc quy định Tòa án giữa những người có thẩm quyền tố tụng và có quyền khởi tố vụ án không đồng nghĩa với những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra việc Tòa án thực hiện chức năng buộc tội vì “nếu chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để chỉ dừng ở việc khởi tố vụ án thì chức năng buộc làm rõ sự thật khách quan của vụ án; bảo đảm sự tội cũng chưa bắt đầu”8 song theo quan điểm của độc lập của Tòa án với vai trò là chủ thể tạo điều chúng tôi khởi tố vụ án là hoạt động nhằm khởi kiện cho những chủ thể tranh tụng là Kiểm sát động tiến trình tố tụng hình sự, là trình tự cần viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham thiết về mặt tố tụng và gắn bó chặt chẽ với việc gia tố tụng khác tranh tụng bình đẳng; bản án, thực hiện các hoạt động tiếp theo thuộc phạm vi quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả của chức năng buộc tội như khởi tố bị can, điều tranh tụng tại phiên tòa… Bảo đảm tranh tụng tra vụ án. Quy định Tòa án có thẩm quyền khởi 6 Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ, http://tuvanphapluat.com/luat-su/dan-su/78-tin-tuc/361-tranh-cai-chuyen- luat-su-thu-thap-chung-cu, truy cập ngày 4/5/2020. 7 Nguyễn Hoàng Thịnh (2018), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2018, bài viết trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày 2/10/2019. 8 Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.22.
  6. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP tố vụ án vừa là sự chồng lấn giữa chức năng buộc Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với một tội và chức năng xét xử vừa dễ dẫn tới những bị cáo nghĩa là chấm dứt việc buộc tội đối với bị định kiến, thiếu khách quan, vi phạm nguyên tắc cáo đó và khi chức năng buộc tội không còn thì suy đoán vô tội khi Tòa án xét xử chính vụ án mà sẽ không còn cơ sở làm phát sinh tranh tụng giữa mình đã khởi tố trước đó. Vì vậy, cần bỏ quy các bên, không còn cơ sở cho sự tồn tại của chức định về trách nhiệm và thẩm quyền khởi tố vụ án năng bào chữa và chức năng xét xử. Vì vậy, Điều hình sự của Tòa án theo quy định tại các Điều 325 BLTTHS năm 2015 cần được sửa đổi theo 18, 154 BLTTHS. Để tránh bỏ lọt tội phạm, chỉ hướng nếu Viện kiểm sát rút một phần quyết định nên quy định trong quá trình xét xử nếu phát hiện truy tố thì Tòa án chỉ xét xử phần quyết định truy việc bỏ lọt tội phạm thì Toà án kiến nghị để Viện tố không bị rút; nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ kiểm sát và cơ quan điều tra khởi tố vụ án. quyết định truy tố thì Tòa án phải đình chỉ việc - Sửa đổi nguyên tắc xác định sự thật vụ án xét xử. Ngoài ra, theo Điều 319 BLTTHS, sau (Điều 15): Điều 15 BLTTHS quy định trách khi kêt thuc viêc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan một phần hoăc toàn bộ quyết định truy tố hoặc có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà chưa phân kết luận về tội nhẹ hơn. Các Điều 321, 325 biệt được trách nhiệm chứng minh của mỗi cơ BLTTHS cũng quy định việc Kiểm sát viên “kết quan trên cơ sở chức năng tố tụng hình sự. Các luận về tội nhẹ hơn”. Như vậy, tại phiên tòa Kiểm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo sát viên có quyền kết luận về tội bằng với tội đã quy định của BLTTHS năm 2015 gồm cả chủ thể ra quyết định truy tố không? Theo quy định tại thực hiện chức năng buộc tội (cơ quan điều tra, điểm c Khoản 1 Điều 266 BLTTHS thì kiểm sát cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số viên có quyền này, nhưng các quy định về hoạt hoạt động điều tra, Viện kiểm sát) và chủ thể thực động của Kiểm sát viên tại phiên tòa lại chưa đề hiện chức năng xét xử (Tòa án). Việc quy định cập tới. Do đó, cần sửa đổi các quy định tương trách nhiệm của tất cả các cơ quan này như nhau ứng cho phù hợp, thống nhất. trong chứng minh tội phạm là chưa hợp lý, có thể 2.2. Các giải pháp khác ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy bản án và quyết của mình. Để bảo đảm nguyên đoán vô tội chủ yếu xuất phát từ tâm lý “án tại hồ tắc tranh tụng, cần sửa đổi nguyên tắc xác định sơ” và định kiến buộc tội của những người tiến sự thật vụ án theo hướng phân biệt rõ ràng hơn hành tố tụng cũng như sự hạn chế về năng lực, trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự trình độ, ý thức nghề nghiệp của luật sư khi bào của các chủ thể trong tố tụng hình sự phù hợp với chữa cho bị cáo. Do đó, việc nâng cao trình độ, chức năng tố tụng theo đó chủ thể buộc tội (Cơ ý thức trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến viên, thẩm phán, luật sư là giải pháp quan trọng. hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát) Một số giải pháp cụ thể như sau: chứng minh tội phạm phục vụ việc buộc tội, Tòa - Quy định cụ thể và thực hiện nghiêm túc án chứng minh sự thật vụ án làm cơ sở cho việc chế độ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp đưa ra phán quyết về vụ án. vụ cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Để - Sửa đổi quy định về trường hợp Kiểm sát hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho thẩm phán, viên rút quyết định truy tố tại phiên tòa: Theo kiểm sát viên, luật sư đạt hiệu quả, có thể chú nguyên tắc chỉ khi có buộc tội mới có gỡ tội (bào trọng một số giải pháp như: chữa) và xét xử; khi không còn sự buộc tội thì + Đổi mới hoạt động đào tạo nghề nghiệp việc bào chữa và xét xử cũng không còn. Nếu cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư thông qua Viện kiểm sát rút quyết định truy tố kể cả trước việc xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn và trong phiên toà thì toà án phải đình chỉ xét xử giáo trình, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng đối với bị cáo hoặc đối với hành vi đó bởi lẽ khi viên bảo đảm tính chuẩn mực, thực tế; chuẩn đầu
  7. Soá 12/2020 - Naêm thöù möôøi laêm ra của chương trình đáp ứng dược đòi hỏi của kiểm sát viên có đủ thời gian vật chất để chuyên thực tiễn nghề nghiệp; tâm nghiên cứu, giải quyết vụ án; cần giải quyết + Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo tình trạng thiếu thẩm phán, thiếu kiểm sát viên lại, bồi dưỡng thường xuyên thẩm phán, kiểm hoặc quy định không phù hợp về biên chế thẩm sát viên, luật sư trong đó đặc biệt lưu ý việc xây phán, kiểm sát viên; bảo đảm chế độ tiền lương, dựng các chương trình bồi dưỡng, tập huấn các điều kiện, phương tiện làm việc để thẩm theo chuyên đề. Nếu như đào tạo cơ bản ban phán, kiểm sát viên yên tâm công tác. đầu tạo nền tảng về kiến thức, kỹ năng nghề - Bản thân các thẩm phán, kiểm sát viên, luật nghiệp cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, sư phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình luật sư thì bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên độ nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp là hoạt động nhằm giúp đội ngũ cán bộ này cập luật hình sự, đúc rút kinh nghiệm trong thực tiễn nhật kiến thức, kinh nghiệm trong suốt quá xét xử, rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng nói; trình hành nghề để đáp ứng kịp thời những yêu thường xuyên rèn luyện bản lĩnh, đạo đức, lương cầu mới của thực tiễn nghề nghiệp. Một số lớp tâm nghề nghiệp, nêu cao tinh thần bảo vệ công bồi dưỡng được tổ chức gần đây đã đạt được lý, thượng tôn pháp luật, thận trọng và tỉ mỉ trong chất lượng, hiệu quả tốt; những kinh nghiệm giải quyết vụ án./. trong xây dựng chương trình và tổ chức bồi TÀI LIỆU THAM KHẢO dưỡng cần được nhân rộng trong thời gian sắp 1. PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đoán vô tới. Ví dụ: Trong năm 2017 và năm 2018, Học tội: Nét son trong tố tụng, https://plo.vn/phap- viện Tư pháp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội luat/suy-doan-vo-toi-net-son-trong-to-tung- đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thành 611793.html, truy cập ngày 4/6/2020. phố Hà Nội tổ chức 04 lớp bồi dưỡng về kỹ 2. Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy năng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự đoán vô tội ở Việt Nam - Tạp chí TAND điện tử cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc- với các chuyên đề như: Kỹ năng chuẩn bị tham hien-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung- gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của kiểm hinh-su-viet-nam-2, truy cập ngày 20/5/2020. sát viên; Kỹ năng sử dụng tư duy logic trong 3. Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ, hoạt động tranh tụng; Kỹ năng xét hỏi; Kỹ năng http://tuvanphapluat.com/luat-su/dan-su/78-tin- xây dựng bản luận tội; Kỹ năng đối đáp tranh tuc/361-tranh-cai-chuyen-luat-su-thu-thap- luận của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ chung-cu, truy cập ngày 4/5/2020. thẩm vụ án hình sự. Tại các lớp bồi dưỡng này, 4. Thanh Tùng, Không được xét hỏi “mớm học viên không chỉ nghe giảng viên thuyết trình cung”, https://plo.vn/plo/khong-duoc-xet-hoi- mà trực tiếp nghiên cứu, xử lý các hồ sơ tình mom-cung-326140.html. huống là những vụ án có thật được biên tập phù 5. Nguyễn Hoàng Thịnh (2018), Nguyên tắc hợp với mục tiêu của mỗi bài học; trực tiếp tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều tham gia đóng vai kiểm sát viên và tranh tụng 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2018, bài viết với các thẩm phán, luật sư giàu kinh nghiệm trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày đang thực tế hành nghề. Phương pháp bồi 2/10/2019. dưỡng này đã giúp học viên chủ động tích lũy 6. Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh được các kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp tụng của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và có những trải nghiệm khi tự mình giải quyết cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự các tình huống thực tế trong quá trình tranh tụng tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học. tại phiên tòa. 7. Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng - Giảm bớt áp lực công việc đối với thẩm buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận phán, kiểm sát viên; bảo đảm cho thẩm phán, văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
nguon tai.lieu . vn