Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015
Bản sắc người Nghệ - nhìn từ dân ca Ví, Giặm
Nghe people identity – from a Vi, Giam folk songs insight
PGS.TS. Trần Thị An
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Assoc.Prof.,Ph.D. Tran Thi An
Vietnam academy social sciences
Tóm tắt
Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính
cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural sub-
region), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận
vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội
nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết
tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời
đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: bản sắc văn hóa, phương ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, Ví, Giặm
Abstract
Based on dialectology and the theories of cultural identity and culture change, considering geographical
and historical factors as well as Nghe people’s shared personality traits and Nghe - Tinh dialect as a
cultural sub-region, the article studies Nghe people’s expression of their cultural identity through one of
their creation of arts known as Vi, Giam folk songs. In the inverse direction, the article strived to study
the role of Vi, Giam in the establishment of Nghe people’s value-based identity and resources-based
identity; and with its spreading power as a quintessential artform, Vi, Giam’s role in establishing a
transnational identity in areas where Nghe people reside in the era of globalization and international
integration.
Keywords: cultural Identity, Dialect, Nghe Tinh folk songs, Vi, Giam
I. LỜI MỞ Nghệ, Ví, Giặm luôn thu hút được sự quan
Là nơi thể hiện một cách sâu sắc và tâm của giới nghiên cứu quan tâm đến
sống động tâm hồn của con người sống mảnh đất này; Là một thế giới nghệ thuật
trên mảnh đất xứ Nghệ, Ví, Giặm luôn là đặc sắc, Ví, Giặm bắc những nhịp cầu để
nơi gửi gắm tâm tình, nơi trút bầu tâm sự, nối các vùng văn hóa Việt Nam, nối văn
nơi thể hiện tiếng lòng, nơi thể hiện hồn hóa Việt Nam với các nền văn hóa trên thế
quê, nơi để được nói ra, để được lắng nghe, giới.
sẻ chia và đồng điệu của mỗi con người Vì thế, các công trình nghiên cứu về
Nghệ; Là một biểu tượng của văn hóa xứ Ví, Giặm đã có nhiều nhưng nói bao nhiêu
3
- vẫn là chưa đủ cho một hiện tượng văn hóa và sơ sử: sự xuất hiện sớm của con người
gắn với mọi mặt đời sống xã hội, đời sống và các nền văn hóa thời kỳ đá cũ với di chỉ
tình cảm, đời sống vật chất, và đặc biệt là Thẩm Òm (Quỳ Châu), các di chỉ thời văn
thể hiện một cách sinh động bản sắc con hóa Hòa Bình (Quế Phong, Con Cuông,
người xứ Nghệ. Chúng tôi, với một mong Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu), các
muốn ấp ủ được viết về làn điệu dân ca của cồn sò, cồn điệp làm nên nền văn hóa
quê hương, sẽ thử nhìn nhận nó từ việc thể Quỳnh Văn thời đá mới, di chỉ Làng Vạc
hiện bản sắc người Nghệ để thấy sự gắn bó với các di vật đồ đồng của thời đại Đông
bền chặt và sâu nặng của thể loại dân ca Sơn. Thư tịch Trung Quốc và truyền thuyết
này với mọi người Nghệ ở muôn nơi. dân gian Việt Nam về thời Bắc thuộc đã tái
Trong bài viết này, quan điểm nghiên hiện phần nào sự phát triển liên tục của lịch
cứu của chúng tôi là tôn trọng tính đa dạng sử vùng đất Nghệ về các cuộc khởi nghĩa
của văn hóa, khẳng định thuyết tương đối của các nữ tướng Hai Bà Trưng, về người
văn hóa; các lý thuyết được vận dụng là anh hùng Mai Thúc Loan với cuộc khởi
văn hóa vùng, bản sắc văn hóa, biến đổi nghĩa 10 năm (713-722) mà các dấu tích về
văn hóa và phương ngữ học; các phương thành quách vẫn lưu giữ trên vùng đất Nam
pháp được sử dụng là phân tích văn bản, sử Đàn và quy mô của cuộc khởi nghĩa có tầm
dụng tài liệu điền dã thứ cấp và so sánh lan tỏa tới cả Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân.
loại hình. Trong khuôn khổ bài viết, phạm Một nét đặc biệt của lịch sử vùng đất
vi khảo sát của bài viết chỉ giới hạn trong này là, trong thời kỳ Đại Việt, xứ Nghệ
những bài hát Ví, Giặm về tình yêu đôi lứa. một thời gian dài là vùng đất phên dậu mà
1. Xứ Nghệ - Một tiểu vùng văn hóa ranh giới cuối cùng của nó hiện còn lưu ở
1.1. Không gian địa lý và những tên gọi của núi Nam Giới (Thạch Hà, Hà
điều kiện lịch sử hình thành vùng đất Tĩnh) được coi là nơi phân định lãnh thổ
Nghệ Tĩnh của người Việt và người Chăm3. Điều này
Trong các nghiên cứu về vùng văn hóa đã được chép trong một số thư tịch. Sách
ở Việt Nam, xứ Nghệ (Nghệ An-Hà Tĩnh) Đại Nam nhất thống chí chép: “Hoành Sơn
thường được coi là một tiểu vùng nằm phía nam huyện Kỳ Anh là chỗ phân địa
trong vùng văn hóa Trung Bộ (Ngô Đức giới giữa hai tỉnh Hà Tỉnh và Quảng Bình,
Thịnh, 1993; Đinh Gia Khánh và Cù Huy một dải núi liên tiếp chắn ngang đến biển;
Cận, 1995 và các tác giả khác) và theo các phía đông có núi Đao, đường quan đi qua
tác giả này, các yếu tố cấu thành văn hóa trên núi, xưa là chỗ phân địa giới giữa Giao
vùng gồm: hoàn cảnh tự nhiên, nguồn gốc Chỉ và Chiêm Thành”. Đại Nam nhất
dân cư, điều kiện lịch sử, trình độ phát thống chí dẫn sách Việt sử ngoại kỷ chép
triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa1. Sự rằng: “Hồi Giao Châu thuộc nhà Hán chúa
bất lợi thế về địa hình và khí hậu (mà ý Lâm Ấp là Phạm Văn xin với thái thú quận
kiến của Đặng Thai Mai có thể coi là tiêu Nhật Nam là Chu Phồn lấy Hoành Sơn làm
biểu2) thường được coi là một nhân tố ảnh giới hạn”. Trong thời gian tồn tại của nước
hưởng mạnh tới tính cách, khí chất con Lâm Ấp, người Chăm đã nhiều lần Bắc
người Nghệ Tĩnh; tuy nhiên, đặc điểm của tiến vượt qua dãy Hoành Sơn, và như vậy
hoàn cảnh tự nhiên này có thể đúng với là, ảnh hưởng qua lại của người Việt và
Quảng Trị, Quảng Bình và phần nào với người Chăm trên mảnh đất xứ Nghệ (dù
Thanh Hóa. lúc đó chưa có tên gọi này) là điều hoàn
Từ phương diện lịch sử, các chứng toàn đã xảy ra. Danh xưng Nghệ An được
tích khảo cổ học đã cho thấy sự liên tục nhà Lý đặt lần đầu tiên vào năm 1030 với
lịch sử trên vùng đất xứ Nghệ thời tiền sử tên gọi mà tính địa phương, tính ngoại vi
4
- của vùng đất trong con mắt của người cầm của tính chất phên dậu, biên viễn, trại và
quyền đã hiện rõ: “Nghệ An châu trại”. những mối quan hệ qua lại khá phức tạp
Với tính chất là vùng biên viễn, xứ Nghệ giữa ngoại vi với trung tâm, giữa người
cũng đã từng là nơi lưu đầy các tù nhân Việt và các dân tộc thiểu số thời đó, với
trong lịch sử. người Chăm chính là những nhân tố tác
Về nguồn gốc dân cư xứ Nghệ, đã có động mạnh để hình thành nên những đặc
một số công trình nghiên cứu. Nhà nghiên điểm về tính cách của con người và đặc
cứu người Pháp là Hippolyte Le Breton đã trưng văn hóa của vùng đất này.
viết từ năm 1936 là: “Ở trên đỉnh của 1.2. Con người Nghệ và thế ứng xử
những cù lao hay bán đảo đó, những người với bối cảnh địa - chính trị - xã hội của
thổ dân văn minh đầu tiên của xứ An Tĩnh vùng biên viễn
cổ đã định cư, chủ yếu là người Chăm”4. Tính cách người Nghệ, rõ ràng là,
Nguyễn Đổng Chi lại có một cách nhìn hơi được hình thành bởi thế ứng xử của con
khác, ông viết: “Nhân chủng Nghệ Tĩnh người trong môi trường chính trị - lịch sử -
thời cổ rất phức tạp: Ở đây có hòn núi Bể, xã hội của vùng đất này. Để vượt thoát
nhất danh là núi Nam Giới thuộc phủ được sự kỳ thị trung tâm và ngoại vi (mà là
Thạch Hà, thuở xưa là cái mốc ngăn đôi một ngoại vi khá đặc biệt, một ngoại vi
Việt Nam và Chàm. Miền Quỳ Châu, Cửa muốn và bị khép kín bởi tính bản sắc),
Rào hiện nay là quê hương của dân Mường người Nghệ không có cách nào khác là
mà ngày trước đã từng ở nhiều miền đồng vươn lên bằng chính sức lực và trí lực của
bằng Nghệ Tịnh như chung quanh Hồng mình. Sự cần cù trong lao động, sự tảo tần
Lĩnh là một... Ngăn cách giữa Lào và Việt trong cuộc sống, sự mạnh mẽ trong ý chí
Nam còn có người Mọi ở rừng núi phía tây sống, sự quyết tâm cao trong học hành và
nam Hương Khê; Thái Đen và Mẹo hay thi cử là những điều mà người Nghệ buộc
Mèo ở rừng núi tây bắc Tương Dương phải lựa chọn trong bối cảnh xã hội khá
cũng do đồng bằng lên mạn ngược. Đời khắc nghiệt của mình. Chính vì vậy, nhận
Bắc thuộc, người Chăm nhiều phen ra cướp xét về tính cách người Nghệ không hề dễ,
phá chiếm đóng. Đời Lê, Lý, Hà Tịnh là và ta đã chứng kiến nhiều nhận xét trái
chỗ đày các tù tội miền Bắc vào. Đến đời chiều nhau. Đầu thế kỷ XIX, Bùi Dương
Trần thì thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tĩnh đã Lịch viết: “Người Nghệ An khí chất phác,
Việt Nam hóa hầu hết”5. Sự cộng cư, giao đôn hậu, tính tình từ tốn chậm chạp không
lưu và hòa huyết của người Việt, người sắc sảo, cho nên làm việc gì cũng cẩn thận,
Chăm và các tộc người Mường, Thái, bền vững, ít khi bị xao động bởi những lợi
H’mông…trong những bối cảnh đầy biến hại trước mắt”6. Phó Toàn quyền Đông
động của chính trị, xã hội đã hình thành Dương những năm 30 của thế kỷ XX là
nên những nét tính cách đặc biệt, nhiều Yves Charles Châtel thì viết rằng: người
phần trong đó là những đối cực, của con Nghệ là “những con người có khí phách,
người trên mảnh đất xứ Nghệ. Và dù là yêu văn học, hăng hái trong lao động và
“đến đời Trần, thổ dân ở đồng bằng Nghệ dũng cảm, nhẫn nại trên một vùng đất đầy
Tịnh đã Việt Nam hóa hầu hết” (như cách cam go, thử thách. Sở dĩ những người dân
nói của Nguyễn Đổng Chi) nhưng thời gian ở đây có bản lĩnh đặc biệt như vậy, chắc
đã chứng minh rằng, cái bản tính (nét tính chắn vì họ đã được tôi luyện qua một quá
cách gốc) được hình thành trong thời gian khứ lâu dài, và chỉ điều đó mới giải thích
đã khá định hình và dường như khó đổi được cho người ta hiểu những đặc thù rất
thay, ngay cả hàng mấy trăm năm sau. rõ rệt trong tính cách và tình cảm của họ”.7
Như vậy, có thể thấy, nét đặc trưng Tác giả Nghệ An phong thổ ký nhận xét con
5
- người Nghệ Tĩnh: “Can đảm đến sơ suất, một cộng đồng có bản sắc khác lạ, nó thể
cần cù đến liều lĩnh, cương quyết đến khô hiện nhiều điều về con người và văn hóa
khan và tằn tiện đến… cá gỗ”.8 Đặng Thai của họ; và nó đã đi vào dân ca ví, giặm để
Mai cho rằng: người Nghệ “tuy không bộc làm nên một thế giới nghệ thuật đầy bản
lộ một cách ồn ào hời hợt, nhưng lại có sắc.
phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, 1.3. Phương ngữ Nghệ
cảm động đến thiết tha”.9 Người Nghệ nói Trong lịch sử nghiên cứu phương ngữ
chung bị cho là “gàn”, và Ngô Đức Thịnh học ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều
cho rằng, cái gàn là “trạng thái tâm lý mà ở công trình được công bố, trong số đó, công
đó có sự khác biệt, xung đột giữa lý trí và trình Tiếng Việt trên các miền đất nước
hiện thực, bắt hiện thực phải chiều theo tư (phương ngữ học)11 của giáo sư Hoàng Thị
duy của lí trí, từ đó dẫn đến sự nhận thức Châu là một công trình mang tính khái quát
và hành động có phần lệch chuẩn”.10 cao. Các trích dẫn về mặt lí thuyết của
Bởi có nhiều nhân tố hợp thành và chúng tôi trong bài viết là dựa vào công
tương tác với nhau trong nguồn gốc dân trình này. Bên cạnh đó, các trích dẫn về
cư, tính cách người Nghệ mang nhiều nét mặt thống kê và phân tích định lượng yếu
phong phú và cả nhiều đối cực, do đó, khó tố phương ngữ học trong dân ca Nghệ Tĩnh
có thể nhận xét một chiều. Vũ Ngọc Khánh được chúng tôi tham khảo từ bài nghiên
(trong bài viết Tính cách người Nghệ) đã cứu Vai trò của phương ngôn trong dân ca
nhìn thấy trong mỗi người Nghệ có ba con hò, Ví, Giặm Xứ Nghệ của Phan Mậu
người (một kẻ bình dân khố chạc - tiếng Cảnh.12
địa phương là khố dây, chỉ hạng người Theo Hoàng Thị Châu, “phương ngữ
cùng cực, một con người chữ nghĩa văn là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự
chương, một chiến sĩ tiền phong cách biểu hiện của một ngôn ngữ toàn dân ở một
mạng). Sự khái quát này có thể vẫn là chưa địa phương cụ thể với những nét khác biệt
đầy đủ nhưng đã cho thấy sự không dễ của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với
dàng trong khái quát tính cách người Nghệ, một phương ngữ khác” (sdd, tr.24). Theo
và như vậy, lẩy một nét tính cách nào đó đó, phương ngữ được đối chiếu với ngôn
của người Nghệ để khái quát thành nét tính ngữ toàn dân (ngôn ngữ chung của toàn
cách chính của dân Nghệ đều là khiên dân tộc), phân biệt với phương ngôn (là tục
cưỡng. ngữ địa phương), đối sánh với thổ ngữ (là
Một đặc điểm nổi trội của người Nghệ các biến thể của phương ngữ ở cấp độ xã,
là tính cộng đồng cao, thể hiện ra ngoài thôn) và với các phương ngữ khác. Là một
bằng sự gắn kết cộng đồng khá chặt chẽ. hiện tượng lịch sử, phương ngữ ra đời và
Xuất phát từ bối cảnh đặc thù của mảnh đất tồn tại cùng với các bộ lạc hoặc các công
xứ Nghệ, con người nơi đây cần phải dựa xã nông thôn, trong quá trình hình thành
vào cộng đồng mới sống được và phát triển nhà nước, nó sẽ dần hợp nhất với ngôn ngữ
được. Hơn nữa, để chống lại sự kỳ thị của toàn dân.13
trung tâm, để tạo thành sức mạnh chung, Căn cứ vào các phương diện ngữ âm,
cộng đồng người Nghệ luôn có xu hướng từ vựng và thanh điệu, Hoàng Thị Châu đã
liên kết, gắn bó, thân thiết thậm chí có chia tiếng Việt thành 3 phương ngữ: Bắc,
trường hợp trở thành cục bộ. Sự co cụm Trung, Nam. Trong đó, phương ngữ Trung
của người Nghệ còn có một lí do khác mà được cho là có 5 thanh điệu nghiêng về sử
chúng tôi sẽ nói ở phần sau, đó là do họ sử dụng thanh điệu trầm được cho là xuất hiện
dụng một phương ngữ hết sức đặc biệt, một sớm trong lịch sử (trong 6 thanh: huyền,
thứ phương ngữ đã biến người Nghệ thành sắc, nặng, hỏi, ngã, không, tùy từng vùng
6
- mà có những sắc thái riêng. Ví dụ, phương phương ngữ học chỉ ra là: trong thế giằng
ngữ Thanh Hóa không phân biệt thanh hỏi co giữa việc giữ lại tiếng nói của địa
và thanh ngã, phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh phương và mong muốn người các địa
dấu ngã biến thành dấu nặng). Tuy nhiên, phương khác hiểu và nói tiếng của mình,
trên thực tế sử dụng, trong nhiều trường có một xu hướng “nhu cầu pha tiếng cho
hợp, số thanh trong tiếng Nghệ ít hơn 5. Cụ hay” (Hoàng Thị Châu, tr. 52) dùng để chỉ
thể: thanh bằng trong nhiều trường hợp hiện tượng dùng từ và cách phát âm của
nhập vào thanh không; thanh sắc nhập vào ngôn ngữ toàn dân trong chừng mực có thể
thanh hỏi, thanh ngã nhập vào thanh nặng, của các vùng có phương ngữ đặc biệt. Với
và trong những trường hợp này, chỉ còn lại người Nghệ, xu hướng này diễn ra theo
3 thanh: không, hỏi, nặng14. Sự giảm thiểu một cách thức hoàn toàn khác. Cần nói
thanh điệu này diễn ra ở những nơi có thổ ngay là, người Nghệ không ưa sự pha tiếng
âm nặng, và đặc biệt là nó được sử dụng (“Chưởi cha không bằng pha tiếng”), dù
trong hát Ví, Giặm như là một cách nhấn điều đó được thực hiện bởi người ngoài
mạnh tính bản sắc của phương ngữ (chẳng hay bởi chính những người trong cộng
hạn: Anh đển gian hoa thi hoa đạ nở), mà đồng. Để giao lưu, cách “pha tiếng” mà
nếu hát nhẹ đi thì dường như “chất Nghệ” người Nghệ chọn là sử dụng song song hai
cũng bớt đậm đà. Biến thể của phương ngữ loại phương ngữ: phương ngữ Bắc (hoặc
Nghệ Tĩnh và các biểu hiện sinh động của Nam) khi giao tiếp ở các môi trường đó, và
các thổ âm thuộc phương ngữ này được thể phương ngữ Nghệ khi giao tiếp trong cộng
hiện trong dân ca Ví, Giặm sẽ cho ta thấy đồng mình. Nhiều người Bắc hoặc Nam đã
một cách sống động hơn chất Nghệ được vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến cách
thể hiện một cách đậm đặc như thế nào phát âm của người Nghệ mà mình biết
trong bộ phận dân ca này. trong môi trường công tác với một người
Trong lý thuyết về phương ngữ, sử Nghệ khác hẳn khi họ giao tiếp với họ
dụng phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, hàng. Đó chính là cách mà người Nghệ vừa
các nhà nghiên cứu chỉ ra đồng ngữ tuyến có thể hòa nhập vừa có thể giữ lại bản sắc
(ranh giới chỉ phạm vi hoạt động về mặt ngôn ngữ của cộng đồng mình. Các nghiên
địa lý của một phương ngữ) và vùng đồng cứu ngôn ngữ học đã chỉ ra hiện tượng
ngữ (chỉ một phương ngữ được sử dụng “bán phương ngữ” ở thành phố Vinh, cho
trong một đồng ngữ tuyến) (Hoàng Thị rằng, do giao lưu nên thanh niên ở Vinh đã
Châu, sdd, tr.65). Như vậy, Nghệ ngữ là dùng phương ngữ Bắc đủ 6 thanh điệu
một “vùng đồng ngữ” mà “đồng ngữ (Hoàng Thị Châu, sđd); tuy nhiên, nghiên
tuyến” của nó về cơ bản là trùng với ranh cứu này không nhận thấy một thực tế là,
giới 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nguyễn việc dùng phương ngữ Bắc không thay thế
Đổng Chi và Ninh Viết Giao cho biết một hoàn toàn tiếng Nghệ, giọng Nghệ, bởi tại
điều thú vị là ở những vùng tính phương thành phố Vinh (trong các diễn đàn chính
ngữ xứ Nghệ nhạt đi (như Quỳnh Lưu, thức gồm người Nghệ với nhau và trong
“giọng nói đã pha Bắc ít nhiều”) thì không đời sống), tiếng Nghệ vẫn được sử dụng
có hát dặm15. Điều này cho thấy “vùng đầy đủ ở các phương diện từ vựng, thanh
đồng ngữ” có sự liên quan chặt chẽ với điệu và ngữ điệu riêng biệt của mình. Đó
“vùng dân ca ví dặm” mà ở đó, phương cũng là một nét bảo thủ của người Nghệ
ngữ Nghệ đóng vai trò rất quan trọng như mà ta sẽ thấy trong/và bằng dân ca Ví,
là nhân tố chủ đạo hay nhân tố tạo hệ thống Giặm.
của bộ phận dân ca này.16 Một vấn đề nữa mà lí thuyết phương
Một vấn đề được các nhà nghiên cứu ngữ học đặt ra có liên quan đến Nghệ ngữ
7
- và việc sử dụng Nghệ ngữ trong Ví, Giặm dỡ bỏ các rào cản và tạo dựng lòng tin;
là: tại sao có những vùng có nhiều thổ ngữ chính vì vậy, bản sắc văn hóa được coi như
(là những biến thể địa phương của các là “vốn xã hội”. Điều này hoàn toàn đúng
phương ngữ), có vùng lại hầu như không với bản sắc Nghệ17.
có thổ ngữ? Câu trả lời của các nhà ngôn 2. Bản sắc Nghệ nhìn từ dân ca Ví, Giặm
ngữ là: “Nơi nào là cái nôi của dân Việt Khi nghiên cứu về việc kiến tạo bản
Nam, nơi ấy có nhiều thổ ngữ, nơi nào là sắc văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn
vùng mới khai phá, nơi ấy vắng mặt thổ nhận vai trò quan trọng của phương ngữ.
ngữ” (Hoàng Thị Châu, sdd, tr.220). Kết Một kết quả ấn tượng nhất là công trình
luận này của các nhà phương ngữ học Phương ngữ, bản sắc văn hóa và giao
trùng với kết luận của các nhà khảo cổ học thương (Dialect, Cultural Identity and
và sử học khi nhận thấy vùng đồng bằng Economic Exchange) được thực hiện năm
sông Hồng, vùng đồng bằng sông Mã và 2010 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu ở
vùng đồng bằng ven biển Nghệ Tĩnh là các trường đại học của Cộng hòa Liên bang
những nơi có nền văn minh sớm cũng là Đức. Trong công trình này, các tác giả đã
những nơi có nhiều thổ ngữ nhất. Chất cổ lập bảng so sánh bộ số liệu điều tra về ngữ
của nền văn hóa và tính cổ của bản ngữ nơi âm và ngữ pháp của các phương ngữ của
các vùng đất này càng làm ta hiểu hơn tại 45 nghìn trường học từ một cuộc khảo sát
sao chất Nghệ thể hiện qua giọng nói lại được tiến hành cách đây hơn 100 năm (từ
khó phôi pha đến vậy, cho dù họ là những 1879 đến 1888) với 439 vùng của nước
người sống ở quê cha đất tổ hay những Đức hiện nay và nhận thấy rằng, các cuộc
người ly hương. Bởi với người Nghệ, di dân xuyên vùng hiện nay chịu ảnh
giọng nói là dấu chỉ để nhận diện một hưởng rõ rệt của các tương đồng về
thành viên thuộc về cộng đồng, và với tâm phương ngữ trong lịch sử; và họ nhận ra
thế của những người bám rễ chặt vào công rằng, bản sắc văn hóa được hình thành
xã nông thôn, người Nghệ cũng như mọi trong quá khứ vẫn còn ảnh hưởng đến giao
người Việt Nam chỉ thực sự cảm thấy an thương ngày nay18. Thực tế cuộc sống ở
lòng khi được công nhận, được sống, được Việt Nam, đặc biệt ở trường hợp đang
thuộc về cộng đồng công xã của mình. Khi nghiên cứu là Nghệ Tĩnh, phương ngữ, như
hát lên hoặc nghe những làn điệu Ví, Giặm đã đề cập ở phần trên, có vai trò cực kỳ
đầy ắp tiếng nói quê hương, người Nghệ quan trọng trong việc kiến tạo nên bản sắc
như cảm nhận được hồn quê lai láng trong văn hóa. Dùng phương ngữ như một công
đó, và được cùng nhau hòa vào một môi cụ hữu hiệu, người Nghệ đã tạo nên một
sinh tinh thần đầy dưỡng chất để nuôi sống không gian tinh thần đặc sắc thông qua dân
tâm hồn họ. ca ví, giặm; dùng dân ca Ví, Giặm để nhận
Đây chính là hiện tượng mà các nhà dạng bản sắc, lựa chọn dân ca Ví, Giặm để
nghiên cứu về bản sắc văn hóa về mặt lý thể hiện bản sắc, lấy dân ca Ví, Giặm để
thuyết đã đề cập đến. Trong Báo cáo xã hội truyền lại cho đời sau một thứ căn cước
năm 2010 của Bộ Phát triển xã hội New văn hóa của cộng đồng mình. Và, tồn tại
Zealand, ở chương “Bản sắc văn hóa”, như một thực thể độc lập, đến lượt mình,
nhóm nghiên cứu cho rằng, bản sắc văn dân ca Ví, Giặm đã thể hiện, nuôi dưỡng và
hóa là một nhân tố quan trọng đối với sự cố sáng tạo lại tâm hồn người Nghệ ở những
kết cộng đồng; việc nhận diện ra các nét chiều kích mới, trong các bối cảnh không
văn hóa của một cá nhân sẽ giúp họ kết nối gian và thời gian mới.
các mạng xã hội, đưa lại cho họ sự hỗ trợ, Trong phần viết này, tôi sẽ từ hai góc
chia sẻ giá trị và truyền cảm hứng; giúp họ độ đó để tìm hiểu hai mối quan hệ: dân ca
8
- Ví, Giặm và phương ngữ; dân ca Ví, Giặm với 2.894 lần xuất hiện, trung bình 4,4
và tâm hồn người Nghệ. dòng thơ có 1 lần từ địa phương được
2.1. Phương ngữ Nghệ Tĩnh và dân dùng. Hát phường vải của tác giả Ninh
ca Ví, Giặm Viết Giao có 4.163 dòng, trong đó có 229
Như trên đã nói, phương ngữ của một từ địa phương với 1.013 lần xuất hiện,
vùng được nhận diện qua 3 yếu tố: từ trung bình 4,1 dòng thơ có 1 lần từ địa
vựng, thanh điệu và ngữ điệu. Ở Việt Nam, phương được dùng”20.
hiếm có loại dân ca nào mà 3 yếu tố này lại - Thanh điệu. Một phương ngữ thường
hiện diện một cách đậm đặc như ở trong được nhận diện ở ngữ điệu và thanh điệu.
Ví, Giặm. Như đã nói ở trên, nằm trong phương ngữ
- Từ vựng. Sẽ hoàn toàn không còn là Trung Bộ, tiếng Nghệ được coi là có 5
dân ca Nghệ Tĩnh khi các từ địa phương thanh, tuy nhiên, trên thực tế, người Nghệ
được thay bằng từ toàn dân. Rất dễ dàng đã nhập các thanh, pha trộn các thanh theo
tìm các ví dụ thể hiện điều này. Trong công những cách thức linh hoạt đặc biệt khiến
trình Hát ví Nghệ Tĩnh, Nguyễn Chung trong tiếng Nghệ có khi chỉ có 3 thanh hay
Anh đã cung cấp cho chúng ta những câu 3 thanh rưỡi. Trong hát Ví, Giặm, sự pha
hát Ví mà khi cất lên chắc chắn là làn điệu trộn các thanh được thể hiện rõ rệt hơn cả.
thiết tha, xúc cảm tinh tế nhưng tiếng địa Hãy lấy ví dụ một bài hát Ví quen thuộc:
phương lại hết sức đậm đặc: A ới (thực ra là “à ơi” nhưng sự luyến
- Có trù cho miếng bạn mồ, láy khiến âm bị biến dạng),
Gọi rằng tình nghĩa khi mô đến giừ. Hoa đển thi thi hoa phại nợ
- Trù có đây thuốc cũng có đây, Đo đây ngươi thi đo phại sang sông
Nhân duyên chưa định miếng trù này (trong sự luyến láy, có thể là giữa sang và
chưa trao. sáng, giữa sông và sống).
- Nghiêng tai nói nhỏ bạn nì, Đển duyên em thi em phại lẩy chông
Về vun trồng chốn cộ, chớ bỏ đi mà Em yêu anh như rửa họi cỏ mẳn nông
bạc tình.19 la tuy anh.
Trong ví dụ vừa dẫn, tất cả các câu Ở đây, ta có thể thấy sự biến thanh rất
đều có tiếng địa phương, tuy nhiên, ở một khó bắt chước: hỏi -> nặng (phải -> phại;
phạm vi thống kê rộng hơn, Phan Mậu nở -> nợ); sắc -> hỏi (đến -> đển, lấy ->
Cảnh cho biết, chỉ có 20% bài Ví sử dụng lậy), huyền -> không (đò -> đo, chồng -
từ địa phương, còn tần số này ở các bài >chông), giữa không và sắc (sang->sáng,
Giặm là 100%. Như thế có thể thấy mật độ sông->sống). Vậy là phát âm của người
từ vựng tiếng Nghệ trong các bài hát Giặm Nghệ trong bài dân ca này chỉ còn 3 (nặng,
còn dày đặc hơn nữa. Bên cạnh các từ vựng hỏi, không), và thanh hỏi thì biến thành
có nghĩa bị phát âm trại đi (trù, roọng, nác, thanh nặng, thanh sắc biến thành thanh hỏi.
tru, cộ…), các từ địa phương thường dùng Chỉ người Nghệ mới thẩm được sự biến
như mô, tê, răng, rứa, chơ, nỏ… còn được thanh một cách phức tạp theo cách của
sử dụng với tần suất cao hơn; bên cạnh đó, riêng mình, không xử lí được các sự biến
các hô ngữ mang khẩu ngữ cao cũng được thanh này, không thể hát hay dân ca Nghệ
sử dụng khá phổ biến (ơ là bạn tình ơi…) Tĩnh được. Do đó, gần như chỉ có người
trong hát Ví. Trong một thống kê khác, Nghệ mới hát đúng và hát hay dân ca Nghệ
Hoàng Trọng Canh cho biết: “Trong Hát Tĩnh, người ở vùng khác, dù là nghệ sĩ lớn
giặm Nghệ Tĩnh của tác giả Nguyễn Đổng cũng khó mà hát đúng và hát hay theo các
Chi, Ninh Viết Giao có 12.714 dòng thơ, thang âm biến đổi phức tạp này. Nghiên
số từ địa phương được sử dụng là 592 từ cứu về hát Giặm, Nguyễn Đổng Chi cũng
9
- đã nhận xét: “Giọng nói đã nặng và dài thì ngôn ngữ toàn dân mà còn được thể hiện
giọng hát cũng vậy. Cái hay của điệu hát một cách đậm đặc với hàm nghĩa nhấn
dặm là ở chỗ giọng hát thô và quê cùng chỗ mạnh cá tính của mình. Ở góc độ tiếng nói,
có một số thổ âm đệm vào bài. Bởi thế nên người Nghệ có vẻ như đứng bên ngoài quá
những người không nhại được giọng ấy trình hòa nhập, họ kiêu hãnh và bảo thủ
quen thì khó lòng mà hát theo cho giống trong việc nâng niu và gìn giữ tính đậm đặc
được”. của phương ngữ trong kho tàng dân nhạc
Về sự đặc biệt của giọng nói người của mình, kể cả trong các nhạc phẩm tân
Nghệ, nhiều nhà nghiên cứu đã thử lí giải nhạc có sử dụng yếu tố dân ca, như là một
nguyên nhân. Vào đầu thế kỷ XIX, Bùi cách thức để giữ gìn bản sắc. Tôi cho rằng,
Dương Lịch nhận xét: “Thổ âm người chất “gàn” của người Nghệ là ở đây. Họ cố
Nghệ An đục và nặng (trọc) nhưng đều có tình giữ lại tiếng nói thô mộc, bởi nó thể
thể bắt chước tiếng khác được vì rằng, hiện trong đó sự cực nhọc của việc chống
nặng thuộc âm cung, mà âm cung thì thuộc chọi và thích ứng với những điều kiện khắc
hành thổ, hành thổ thì không phải chính nghiệt của thiên nhiên và cuộc sống khó
ngôi (ngôi cố định) và không thành tính khăn, nó thể hiện sự cứng cỏi của nghị lực,
(tính cố định) đều có thể nhờ ở 4 hành khác vừa bản lĩnh vừa bảo thủ một cách gàn dở.
mà vượng lên cho nên hiện ra âm thanh Tiếng Nghệ vì thế, chính là người Nghệ.
cũng thế”21. Cách lí giải này bị Nguyễn Nó là chất kết dính những người Nghệ xa
Đổng Chi cho là thiếu thuyết phục và nêu xứ, họ có thể “bắt sóng” để nhận ra nhau
ra một cách lí giải khác: “Xét từ khi lập và thân thiết với nhau nhanh chóng. Đó là
quốc đến nay, bản đồ Việt Nam bao giờ lí do khiến cho Ví, Giặm, nơi sử dụng một
cũng có miền Nghệ Tịnh dính vào, vậy mà cách hồn nhiên và đậm đặc tiếng Nghệ, là
giọng nói của dân miền ấy vẫn khác với sức hút nam châm đối với mỗi người Nghệ,
giọng người Bắc, lại cũng khác luôn với càng xa quê càng trở nên mãnh liệt. Công
giọng người Đàng Trong. Bùi Dương Lịch, trình nghiên cứu về người gốc Việt tại
nhà Nho ở thế kỷ trước, đã dựa vào âm London23 gần đây chỉ ra rằng, bản sắc
dương ngũ hành mà giải đoán, nhưng xuyên quốc gia (transnational identity)
những ý kiến ấy đối với ngày nay không trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập
khỏi thành ra cổ hủ. Theo âm vận học thì quốc tế, nếu có, cũng là được hình thành từ
do những điều kiện địa lý, sinh lý. Tiếng bản sắc mang tính giá trị (value-based
Việt Nam bắt đầu đến đây bị ảnh hưởng identity) và bản sắc được tạo lập tự cội
cách phát âm của các thổ dân là dân có hầu nguồn (resources-based identity) hoàn toàn
khẩu hở nên âm thanh biến đổi ra cứng và đúng với trường hợp dân ca Ví, Giặm và
nặng - hay trọ trẹ, như người xứ Bắc bản sắc người Nghệ mà ta đang nói ở đây.
thường chê”22. 2.2. Những chiều cạnh trong tính cách
Tôi cho rằng, cần nhìn nhận “tính và đời sống cảm xúc người Nghệ thể hiện
riêng biệt” của tiếng Nghệ trong dân ca Ví, trong hát Ví, Giặm
Giặm ở các nguyên nhân về lịch sử và tính Văn học nghệ thuật là nơi thể hiện sự
cách người Nghệ. Như đã nói ở trên, thăng hoa cảm xúc, nơi con người tự vẽ
phương ngữ là một hiện tượng mang tính chân dung mình bằng những nét thanh tao
lịch sử, tuy nhiên, ta đã thấy trong đời nhất với ít nhiều hư cấu. Tuy nhiên, dân ca
sống, người Nghệ không chấp nhận pha Ví, Giặm Nghệ Tĩnh lại không tuân theo
tiếng, và trong dân ca Ví, Giặm, phương quy luật này. Người nghe/người đọc khó
ngữ Nghệ được sử dụng nguyên trạng, tìm thấy một diện mạo hoàn hảo với những
chẳng những không thay đổi theo hướng nét vẽ nuột nà về người hát trong các bài
10
- dân ca; mà ngược lại, có thể thấy ở đây tố bác học vào lối hát bình dân, dùng chữ
những con người thực như cuộc đời với nghĩa để làm sang cho một hoạt động diễn
nhiều đối cực, trong đó, bên cạnh sự sâu xướng dân gian chắc chắn phải bắt nguồn
sắc và đằm thắm, tinh tế và lãng mạn là sự từ việc mê học và trọng chữ nghĩa của
mộc mạc đôi khi đến mức thô thiển mà người Nghệ có từ thuở xa xưa (cho đến
nhân vật trữ tình hình như không muốn nay, niềm đam mê học hành vẫn mãnh liệt
giấu đi. trong con người xứ Nghệ). Và một điều thú
Ấn tượng đầu tiên và hết sức mạnh mẽ vị là diễn xướng dân ca xứ Nghệ đã bình
mà dân ca Ví, Giặm mang lại là sự sâu sắc dân hóa các yếu tố chữ nghĩa, khiến cho sự
trong tâm hồn người tham gia sáng tác và xuất hiện của nó không cản trở mà ngược
diễn xướng Ví, Giặm. Chỉ nhắc hai bài Ví lại làm thêm duyên cho câu hát dân ca. Tuy
quen thuộc Anh đến giàn hoa và Thà trước nhiên, bên cạnh đó, cũng cần nhận thấy
em nói không thương anh thì thôi với lối một thực tế là, người dân, do không biết
hát “chồng đấu” từ hai câu ca dao chính, chữ Hán nên đã phát âm nhầm các từ (ví dụ
với giai điệu ngọt ngào mà da diết, lời tâm “hải khoát sơn cao” tức “biển rộng trời
tình mộc mạc mà sâu nặng khiến người hát cao” đã bị hát nhầm thành “hải hoác sơn
và người nghe luôn cảm nhận một sự rung cao”25). Ninh Viết Giao cho rằng, trong
động sâu xa về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài Hát Phường vải, sự tham gia của nho sĩ
hát Ví, hát Giặm về tình yêu là một câu khiến cho cuộc hát bị quy định chặt chẽ,
chuyện tình mà người hát gửi lòng mình “giảm phần nào tính chất trong sáng, lành
vào đó, người nghe như đang được trải mạnh, bình dị của dân ca”, và cách bẻ chữ
nghiệm cảm xúc yêu đương và độ thiết tha của các cụ trong cuộc hát đã “làm mất tính
sâu sắc của tình cảm được dồn nén trong hồn nhiên, trong trẻo của dân ca”26. Cũng ở
bài dân ca khiến người hát/người nghe nghĩ chỗ này, Lê Văn Hảo cho rằng, “sự tham
sâu hơn về chính con người mình. dự của nhà Nho đã phức tạp hóa hát ví,
Ấn tượng thứ hai là sự kết hợp chất nhất là ví phường vải, làm cho nó trở nên ít
dân gian và chất bác học trong lời ca. Theo nhiều nặng nề, khúc khuỷu, làm mất bớt
thống kê của Nguyễn Phương Châm, trong tính chất nhân dân của nó”.27
1771 lời trong cuốn Hát phường vải (Ninh Có thể thấy một biểu hiện của những
Viết Giao, 1993) có 177 lời sử dụng các đối cực của phong thái người Nghệ trong
tích cổ trong văn chương bác học24. Có nhịp điệu của hai lối hát Ví và hát Giặm.
điều này một phần vì các cuộc hát Ví, Các nhà nghiên cứu đã nhìn thấy nhịp điệu
Giặm có sự tham gia của các nhà nho bình dồn dập và nặng nhọc của cuộc sống người
dân và các bậc đại nho như Nguyễn Du, Nghệ Tĩnh được thể hiện qua hát Giặm.
Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu; phần Thái Kim Đỉnh viết: “Hát giặm, với thể
khác là vì trong mỗi con người Nghệ có văn ngắn, nôm na, mộc mạc, dùng nhiều
nhiều con người cùng tồn tại mà Vũ Ngọc thổ ngữ, với nhịp điệu dồn dập, gấp gáp, và
Khánh đã chỉ ra (có con người khố chạc, có giọng hát như dằn xuống, chắc nịch, nghe
con người văn chương chữ nghĩa). Nghệ trầm buồn, phải là sản phẩm của một vùng
Tĩnh được coi là đất học, số lượng sĩ tử đất xa nơi đô hội, ít giao lưu, không có
đông, số người đỗ đạt cũng nhiều; và có thuyền lớn sông dài, mà là đồng chua nước
thể thấy rằng, trong mỗi người Nghệ, tâm mặn, cuộc sống con người còn vất vả, nhọc
lý học để vượt thoát khỏi cuộc sống lam lũ nhằn”28. Lê Văn Hảo cũng có cảm nhận
luôn đan xen với học để nâng mình lên tương tự về lối hát Giặm: “Không nghe
tầng lớp “có chữ”, không biết nét tâm lý quen tai ta sẽ không hiểu nổi giọng hát
nào đậm hơn. Chính vì vậy, việc đưa yếu giặm; có lẽ nó là lối dân ca làm cho người
11
- hát mệt nhọc nhất, bởi thế phong dao Nghệ trong lòng mủng, lộ mô tui cũng dùi.),
Tĩnh đã có câu: Dại nhất là thổi tù và, Thứ nhiều sự chanh chua, nhiều cách ăn nói bốp
hai hát giặm, thứ ba thả diều”.29 chát như đào đất đổ đi (câu chuyện đối đáp
Bên cạnh đó, hát Ví được thể hiện giữa Di Tương và Sĩ Đường - một cặp hát
trong nhiều môi trường, với giai điệu ngọt ăn ý với nhau ở Thạch Hà. Chỉ vì bực bội
ngào và sâu lắng, cách nói lịch sự và đầy với người bạn hát của mình trong câu hỏi
chữ nghĩa, cách thể hiện thiết tha và trân có chút ỡm ờ, trách móc mà cô gái đã dùng
trọng đã thể hiện phong cách thanh tao và lối chơi chữ để đốp chát ngầm ý đạp vào
sang trọng của người Nghệ. Nguyễn Đổng mặt bạn hát của mình)31. Trong hát đối
Chi cho rằng, hát Giặm là lối hát cổ và đáp, các bên thử tài, tranh tài biết bao là
trong quá trình phát triển thì dần dần, hát say sưa, ý nhị; nhưng có khi chỉ vì một
Giặm mất đi, chỉ còn lại hát Ví. Như thế chút không ưng ý, một thế bí là có thể
nghĩa là hát Ví thể hiện trình độ nghệ thuật “tung” ra một câu lý sự cùn, có khi văng ra
cao của lối diễn xướng dân ca, trong đó, câu chửi32. Tình huống này cho thấy không
tính thực tiễn thô giản của đời thường bị phải chỉ là sự nóng nảy của người hát, mà
giảm thiểu và độ trau chuốt nghệ thuật đã thực chất đó chính là sự hạn chế trong văn
được nâng lên. (Kết quả thống kê của Phan hóa giao tiếp thể hiện những rào cản cố
Mậu Cảnh cũng đã chỉ ra rằng, có 20% số hữu mà người Nghệ cần rũ bỏ nó trên con
bài hát Ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% đường của hòa nhập.
bài hát Giặm sử dụng tiếng Nghệ). Chính ở Đến đây, có thể thấy một hình dung
điểm này, Nguyễn Chung Anh đã viết: khái lược về chân dung con người xứ Nghệ
“Hát ví Nghệ Tĩnh có cái giọng chắc nịch, được thể hiện qua dân ca Ví, Giặm. Đó
nghe réo rắt như tiếng thác đổ, thiết tha chắc chắn không phải chỉ là những nét vẽ
như có một sức nặng của tình cảm trên cao nên thơ về những nghệ sĩ chốn dân gian mà
dội xuống”30. là những nét khắc họa trung thực, thông
Bên cạnh những biểu hiện thể hiện sự qua đó, sự tinh tế và trau chuốt và sự xù xì,
tinh tế của cảm xúc trong Ví, Giặm, một thô ráp của con người Nghệ với những đối
đối cực khác khá dễ nhận thấy là sự mộc cực trong tâm tính và cảm xúc đã hiển hiện
mạc đến thô giản trong cách diễn đạt của thật rõ nét. Chất Nghệ của dân ca Ví, Giặm
dân ca Ví, Giặm. Cùng trách con gà gáy vì thế mà càng đậm đà hơn, và càng gắn bó
sớm để đôi lứa phải chia lìa trong cuộc hát với người Nghệ hơn. Bản tính của người
đang độ say, ca dao/dân ca Bắc Bộ là: Nghệ là không ưa tô vẽ, bằng sự mộc mạc
- Trách gà sao vội gáy tan, Chung họ nhận chân bản thân mình, bằng sự cứng
tình chưa mãn chuông vàng vội rung cỏi họ khẳng định bản lĩnh của mình, bằng
- Ta tức con gà ta giận con gà, Đôi sự kiêu hãnh họ thể hiện lòng tự tôn, và
ta đang than thở nó đà gáy lên. bằng sự bảo thủ họ sống trong một thế giới
Còn dân ca Ví, Giặm thì nói: đầy bản sắc nhưng cũng không ít giới hạn
Đến giờ chỉ giận con gà chết toi. của chính mình. Ví, Giặm trở thành những
Tím gan cho cái sao mai, thông điệp để người Nghệ tạo lập những
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên… liên kết và sẻ chia trong cộng đồng, để giới
Bên cạnh sự thô giản, trong dân ca Ví, thiệu mình với thế giới bên ngoài và cũng
Giặm, ta còn có thể thấy nhiều yếu tố tục từ sự nhận chân đó để phá bỏ dần các giới
(Tui đây chẳng phải trai hư, Tui đan cũng hạn để hòa nhập vào không gian chung của
tài, tát cũng đặng lại lận dừ cho coi. Lận đất nước và thế giới.
thì chận cột hẳn hoi, Ở trên tui ấn xuống, ở 3. Ví, Giặm trong cuộc sống hôm nay
ngoài tui dùi vô. Nói ra sợ mất lòng o, Ngó Các nghiên cứu thực địa đều chỉ ra sự
12
- đứt đoạn của diễn xướng Ví, Giặm trong sáng tác lời mới của các nhạc sĩ, các hoạt
một thời gian dài. Tuy nhiên, thực tế cuộc động sưu tầm của các nhà nghiên cứu, các
sống lại chỉ ra rằng, sự đứt đoạn diễn hoạt động truyền dạy của các nghệ nhân
xướng không làm đứt đi mối dây ràng buộc trên sóng truyền hình và trong các trường
tâm hồn người Nghệ với dân ca ví, giặm ở học, các phong trào thi đua học hát dân ca
mọi thời điểm, ở mọi không gian. trong trường học và trong các địa phương
Cũng như một số loại hình dân ca các trên địa bản tỉnh…đã thực sự làm sống lại
vùng miền khác (như quan họ, xoan), sau kho tàng dân ca Ví, Giặm trong cuộc sống
năm 1945, các hoạt động diễn xướng dân mới. Đặc biệt, hình thức kịch hát dân ca
gian dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không với việc sân khấu hóa hình thức diễn
được tiếp tục như trước. Dù vậy, trong các xướng dân gian truyền thống đã làm tốt
xóm làng, các nghệ nhân vẫn hát, các bài việc nuôi sống diễn xướng dân gian trong
dân ca vẫn được truyền lại cho con cháu. Ở một hình thức mới, bằng các phương tiện
Thanh Chương quê tôi, vào những năm của nghe nhìn đã giới thiệu một cách rộng rãi
thập kỷ 70 của thế kỷ trước, tôi vẫn được vốn cổ tới nhân dân34 để rồi kho tàng dân
nghe một vài cuộc hò đối đáp của các anh ca Ví, Giặm được hồi sinh trong cuộc sống
chị thanh niên trong làng. Đến thập kỷ 80 người dân với một sức sống mới. Hoạt
thì diễn xướng đối đáp dân gian này mất động của hơn 50 câu lạc bộ dân ca trên địa
hẳn. bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay là
Tuy nhiên, trong lòng người Nghệ kết quả của những nỗ lực tổng hợp của các
Tĩnh vẫn luôn có chỗ cho các bài dân ca. nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghệ nhân dân
Theo “Báo cáo tổng quan về kiểm kê khoa gian xuất phát từ một chủ trương đúng đắn
học dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” do Viện của hai tỉnh về việc bảo tồn, khôi phục và
Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam phát huy vốn cổ trong đời sống đương
thực hiện trong 2 năm 2012-2013, thì: tại đại.35
tỉnh Nghệ An có 15 huyện/thị/thành phố, Bên cạnh đó, việc sáng tác các ca khúc
bao gồm 60 xã/phường/thị trấn với 168 sử dụng chất liệu dân ca Ví, Giặm cũng là
làng/thôn/xóm/khu dân cư và 60 câu lạc bộ một cách thức thể hiện việc khơi nguồn và
đã và đang thực hành sinh hoạt dân ca Ví, tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền
Giặm; con số này ở tỉnh Hà Tĩnh là 12 trong bối cảnh mới. Trong các ca khúc này,
huyện/thị/thành phố bao gồm 38 xã/thị phương ngữ Nghệ được sử dụng một cách
trấn/phường với 92 làng/thôn/xóm/khu dân tinh tế và uyển chuyển với trình độ nghệ
cư và 15 câu lạc bộ. Và “cả 2 tỉnh hiện có thuật cao khiến cho chỉ cần lời ca được cất
2.696 cá nhân đại diện cho cộng đồng và lên là người nghe được đắm chìm vào
câu lạc bộ (Nghệ An: 783 nam và 901 nữ; không gian văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ.
Hà Tĩnh: 545 nam và 503 nữ) ký tên vào Vẫn là việc sử dụng tiếng địa phương (mô,
bản đại diện cho cộng đồng, cam kết đồng rứa, ngái), sự pha trộn của các thanh điệu
thuận với chủ trương của Chính phủ Việt và việc thể hiện ngữ điệu đặc trưng giọng
Nam về việc đề cử hồ sơ quốc gia, trình Nghệ, các bài hát về Nghệ Tĩnh tiếp nối
UNESCO xét duyệt đưa “Dân ca Ví - Giặm mạch nguồn của dân ca Ví, Giặm đã
Nghệ Tĩnh” vào danh sách di sản văn hóa chuyển tải hồn quê qua các ca khúc tới
phi vật thể đại diện của nhân loại, năm người nghe mà sóng thanh âm có sức lay
2013”33. động mãnh liệt tới các tâm hồn người xứ
Cùng với các hoạt động diễn xướng Nghệ. Có thể nói, không một người Nghệ
dân gian, hoạt động sưu tầm và biểu diễn Tĩnh nào không thuộc ít nhất một ca khúc
của các đoàn dân ca, việc cải biên lời cũ và về quê hương mình. Bên cạnh việc “ngôn
13
- ngữ là một tập quán mà người ta mang theo phải thông qua những con người cụ thể; nó
mình và không thay đổi dễ dàng được” phải vì đất nước nói chung, vì xứ Nghệ và
(Hoàng Thị Châu, tr. 223), âm nhạc của con người Nghệ nói riêng.
một vùng đất (dân ca, nhạc đương đại) có II. LỜI KẾT
giá trị kết nối cao với một sức mạnh không Trong lời Tựa sách An Tĩnh cổ lục,
thể ngờ tới, nó tạo nên một không gian văn Phó toàn quyền Đông Dương Yves Charles
hóa xuyên thời gian và xuyên không gian, Châtel viết: “Nghệ Tĩnh là một trong
đưa những người xa lại gần nhau trong một những miền đất của xứ Đông Dương có
tinh thần tôn vinh bản sắc. Chính vì những những bản sắc và đặc điểm rõ rệt hơn đâu
giá trị đó, ngày 27/11/2014, dân ca Ví, hết”. “Tính bản sắc” và “đặc điểm rõ rệt”
Giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO vinh này có thể cảm nhận một cách dễ dàng nhất
danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện qua biểu tượng chưng cất của văn hóa xứ
của nhân loại. Nghệ là dân ca Ví, Giặm với tư cách là một
Các nghiên cứu về “bản sắc văn hóa” căn cước văn hóa của người Nghệ như ta
trên thế giới với việc tranh luận rằng, nó là đã và đang thấy. Hơn nữa, là một kho tàng
sản phẩm của lịch sử, của quá khứ hay là diễn xướng-dân ca có giá trị âm nhạc cao,
câu chuyện đương đại, là sản phẩm thực là sản phẩm của những không gian diễn
hay là sự tạo dựng có chủ ý theo những xướng đặc thù của một vùng quê có tính
mục đích nào đó36 hoàn toàn có thể lấy kết nối và lan tỏa nội vùng mạnh mẽ khiến
trường hợp dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để cho nó có sức sống bền bỉ vượt thời gian,
khảo sát. Như đã trình bày từ đầu bài viết dân ca Ví, Giặm đang từ xu hướng hướng
đến đây, có thể thấy, việc chọn dân ca Ví, tâm một cách khả bảo thủ để lan tỏa ra các
Giặm để thể hiện bản sắc văn hóa (ở trạng cộng đồng khác trong nền văn hóa Việt
thái thăng hoa và chưng cất nhất) là lựa Nam cũng như các nền văn hóa khác trên
chọn của người Nghệ trong quá trình lịch thế giới. Trải biết bao dâu bể, Ví, Giặm đã,
sử, nó in dấu trong quá khứ và vẫn tiếp tục đang và sẽ sống một đời sống mạnh mẽ
đến hôm nay, vừa là các giá trị ổn định vừa trong tâm hồn người Nghệ, trong không
thay đổi theo những biến đổi của con người gian rộng lớn toàn cầu nơi những người
và bối cảnh (lịch sử, xã hội) đương đại. Nghệ đang sống, và như vậy, nó mang sức
Bối cảnh mới đang đặt ra vấn đề bảo sống Việt Nam tỏa rạng muôn nơi.
tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong Cũng như người của biết bao miền quê
những điều kiện kinh tế, xã hội mới. Từ khác, tôi yêu quê hương tôi bằng một một
những mạch nguồn truyền thống và từ sự tình yêu sâu nặng. Trong tình yêu đó, với
kết nối sâu xa của con người xứ Nghệ với mọi người Nghệ, tiếng Nghệ như là một
không gian văn hóa của mình, từ tính bản biểu tượng của tất cả sự gian khổ, nhọc
sắc đậm đà trong thế giới tinh thần của nhằn, của dịu ngọt và đằm thắm, của bình
người Nghệ, từ việc trao truyền gen văn hóa yên và giông bão… gắn kết người Nghệ
của người Nghệ tới các thế hệ con cháu, thành một cộng đồng đầy thân thương; và
việc bảo tồn gần nhất với nguyên trạng là Ví, Giặm như một thứ hồn cốt của quê
yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Bảo tồn là để hương mà tôi tin, tất cả mọi người Nghệ
giữ gìn bản sắc văn hóa cho đất nước nhưng đều từ đó để “lớn nổi thành người”.
thực hiện sự bảo tồn và phát huy đó cần
14
- Chú thích:
1 15
Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962),
văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr.64 Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nxb. Sử học, H.
2 16
Về mặt phong thổ, xứ Nghệ "xưa nay vẫn để lại Theo thống kê của Phan Mậu Cảnh, có 20% số bài
trong tâm não của nhiều người ấn tượng một khu hát ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% bài hát dặm sử
vực không hề được tạo vật cưu đương. Mấy mảnh dụng tiếng Nghệ.
17
đồng bằng hẹp như bị thắt riết vào bao nhiêu thung Nguồn: http://www.socialreport.msd.govt.nz/documents/the-
lũng, giữa những dãy núi chập chùng. Đất đai phần social-report-2010.pdf
18
lớn chả có bao nhiêu màu mỡ. Nhiều nơi chỉ là đồng Website: www.CESifo-group.org/wp
19
chua nước mặn. Cảnh vật quanh năm, nếu không Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb.
nói là cằn cỗi, thì cũng không có gì là thi vị. Một Văn Sử Địa, H., tr.40
20
mùa xuân nghèo màu sắc, hiếm thanh âm. Hè đến là Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ Nghệ Tĩnh
nắng với gió. Những đợt "nam cào" làm cho nứt đất với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, Nguồn: Báo Hà
nẻ đồng, cạn cả khe suối, khô róc cả giếng, ao, đầm Tĩnh online
21
hồ. Bụi tỏa mù trời, đầu cả đường, lùa vào tận nhà Bùi Dương Lịch, sdd, tr. 214
22
ở, phủ lên cả đồ đạc. Gió vồ vập làng mạc, gió rung Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962),
chuyển cả núi rừng. Nắng với gió là hai nguyên tố Hát giặm Nghệ Tĩnh, sdd
23
ngự trị. Tiếp theo đó là mùa thu với mưa với lụt. Stephen Samuel James (2011), Những người London
Rồi đến mùa đông ủ dột, lạnh lẽo, tiêu điều" (Đặng gốc Việt: Các bản sắc xuyên quốc gia qua những liên
Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb. kết cộng đồng (Vietnamese Londoners: Transnational
Văn hóa, Hà Nội, (in lần thứ 2), tr. 34-35) Identities Through Community Networks)
3 24
Bùi Dương Lịch viết: “Núi Nam Giới trên bờ biển Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng
xã Dương Luật, huyện Thạch Hà. Ngày trước, phía ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3.
25
Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành, nên đặt Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn
tên là núi Nam Giới”. (Nghệ An ký, Nguyễn Thị hóa & Viện Văn học, tr.27
26
Thảo dịch và chú, Nxb. KHXH, H., 1993, tr.155). Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn
4
An Tĩnh cổ lục, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang hóa & Viện Văn học, tr.49
27
và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát
Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Đại học,
tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 20 Sài Gòn, số 34
5 28
Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm,
Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập I, Nxb. Sử học, H., tr.23 Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1995
6 29
Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo Lê Văn Hảo (1963), bdd
30
dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, Nguyễn Chung Anh (1958), sdd, tr.42
31
tr.211 Hỏi (Sĩ Đường): Một là tương lạt muối, Hai là
7
Lời Tựa cuốn An Tĩnh cổ lục, Sdd., tr.10 tương xấu đỗ nành, Ba là Tương vắn (ngắn) múi
8
Dẫn theo Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Không chộ
của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí Tương lai vãng, Nỏ chộ nàng lai vãng.
Đại học, Sài Gòn, số 34 Đáp (Di Tương): Tương không hề lạt muối, Tương
9
Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, không xấu đỗ nành, Tương cũng không vắn múi
sđd, tr. 40 khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Tương đi
10
Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng ngày ba bận, Tương đạp giữa mặt đường ba bận.
32
văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, TpHCM, tr.189 Tôi vẫn nhớ như in cảm giác bị shock khi nghe cuộc
11
Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền hò đối đáp vào một đêm trăng mùa hè cách đây hơn
đất nước (phương ngữ học), Nxb. KHXH., H. 35 năm quê tôi (Ngọc Sơn, Thanh Chương). Trong
12
Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn cuộc hò đối đáp đó, khi bị nhóm các chàng trai trêu
trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo chọc hơi ác ý, các cô gái lập tức đáp lại: “Hò chi hò
Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, dại hò thàm, Bẻ que truồng lợn chống hàm cha mi
giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011 lên” khiến cho cuộc hò đối đáp lặng đi. Xin chú ý,
13
Karl Marx đã nói rằng: “Thổ ngữ là sản phẩm của người Thanh Chương phát âm từ “chuồng lợn”
công xã, cũng như nếu xét theo một quan điểm đó, thành chữ “truồng lợn”.
33
nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là công xã tự Nguồn: http://vicas.org.vn/
34
biểu hiện” (dẫn theo Hoàng Thị Châu, tr. 230). Việc ra đời thể loại kịch hát được chuyển thể từ
14
Hoàng Trọng Canh trong bài viết Phương ngữ Nghệ những làn điệu ví, giặm được bắt đầu với vở
Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ (2014) đã “Không phải tôi”(1970) và nhiều vở diễn như: “Cô
phân tích thang âm phức tạp dẫn đến tính “lơ lớ”, gái sông Lam”; “Lời Người, lời của nước non” đã
“trọ trẹ” trong phát âm của người Nghệ đánh dấu thành công của Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh.
15
- 35
Nhiều năm xa quê, tôi cũng không ngờ xã Ngọc Sơn 9. Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải,
(huyện Thanh Chương, Nghệ An) hiện đã có một Nxb Văn hoá & Viện Văn học, Hà Nội.
câu lạc bộ Ví, Giặm với hơn 40 thành viên mà từ
chủ nhiệm, người viết lời và dàn dựng các điệu hát 10. Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt
đến các thành viên đều là người họ hàng quen biết. của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh,
36
Fred Dervin (2011), Bản sắc văn hóa, tính đại diện Tạp chí Đại học, Sài Gòn, số 34
và những vấn đề khác (Cultural identity,
representation and Othering), Nguồn: 11. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị
http://users.utu.fi/freder/dervinhandbookcorrect.pd; Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb.
Jean-François Bayart (2005), Những ảo tưởng về KHXH., H., 1993, tr.211
bản sắc văn hóa (The Illusion of Cultural Identity),
University Of Chicago Press.
12. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội
Châu, In lần thứ 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
13. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng &
TÀI LIỆU THAM KHẢO
phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ,
Tp.HCM
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ
Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, tr.40 Tài liệu tiếng nước ngoài
2. Hippolyte le Breton (1936), An Tĩnh cổ lục, 1. The Ministry of Social Development (2010),
Tập san “Đô thành hiếu cổ” xuất bản, Bản The Social Report, Source:
dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn http://www.socialreport.msd.govt.nz/documen
Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu ts/the-social-report-2010.pdf
và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và
2. Oliver Falck, Alfred Lameli, Stephan Heblich,
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
Jens Suedekum (2010), Dialect, Cultural
2005
Identity and Economic Exchange, Website:
3. Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ www.CESifo-group.org/wp
Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ
3. Stephen Samuel James (2011), Vietnamese
Nghệ, Nguồn: Báo Hà Tĩnh online
Londoners: Transnational Identities Through
4. Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương Community Networks, Goldsmiths College,
ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ University of London
yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy
4. Fred Dervin (2011), Cultural identity,
các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh,
representation and Othering, Source:
2011
http://users.utu.fi/freder/dervinhandbookcorre
5. Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất ct.pdf
bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn
5. Jean-François Bayart (2005), The Illusion of
hóa dân gian, Hà Nội, số 3.
Cultural Identity), University Of Chicago
6. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các Press.
miền đất nước (phương ngữ học), Nxb.
Akhil Gupta and James Ferguson (1992),
KHXH., Hà Nội.
“Beyond "Culture": Spsace, Identity, and the
7. Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Politics of Difference”, Source: Cultural
Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1&2, Nxb. Sử Anthropology, Vol. 7, No. 1, Space, Identity,
học, Hà Nội. and the Politics of Difference, (Feb., 1992),
8. Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát pp. 6-23
giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 19/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015
16
nguon tai.lieu . vn