Xem mẫu
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia ra đời và tồn tại với lịch sử mấy nghìn
năm. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của mình, cộng đồng cư
dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đã phát minh ra nhiều giá trị vật
chất và tinh thần mà giá trị của nói vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Với một quốc gia luôn phải chống chịu hàng trăm cuộc xâm chiếm
của các thế lực bên ngoài thì một yêu cầu đặt ra để bảo đảm sự tồn tại
của đất nước đó là phải có biện pháp hữu hiệu để chống lại các thế lực
ngoại bang. Một trong những công trình nhằm chống lại sự xâm lấn của
ngoại bang là Thành – một công trình có nhiều ý nghĩa cho sự tồn tại của
một quốc gia, dân tộc.
Để tìm hiểu rõ hơn về Thành lũy trong lịch sử của nước ta, ở bài
tiểu luận này sẽ chọn 3 thành tiêu biểu nhất trong suốt chiều dài lịch sử
của dân tộc đó là thành Cổ Loa, thành Hoa Lư và thành Thăng Long – 3
thành tiêu biểu trong hệ thống thành lũy Việt Nam. Với mục đích đó, đề
tài bài tiểu luận nay là: “Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong
tiến trình lịch sử Việt Nam” được chọn để nghiên cứu.
Với thời gian ít ỏi, khả năng người thực hiện còn hạn chế nên đề
tài chắc chắn sẽ không thể tránh những hạn chế nhất định, rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 1
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
CHƯƠNG MỘT
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ THÀNH LUỸ VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến thành
Thành luỹ: là công trình xây dựng kiên cố, vững chắc để bảo vệ,
thành xây có nhiều lớp bao bọc để bảo vệ phòng thủ một vị trí quan
trọng của một tổ chức hay một hệ thống xã hội.
Thành quách: là công trình xây dựng kiên cố bằng những vật liệu
kiên cố như gạch, đá, vững chắc để bảo vệ, thành xây có nhiều lớp bao
bọc để bảo vệ phòng thủ một vị trí quan trọng của một tổ chức hay một
hệ thống xã hội.
Chòi canh – vọng gác: là công trinh được xây dựng ở những vị trí
thoáng đảng tầm quan sát lớn để quan sát, canh gác, chiến đấu.
Tháp canh: là công trinh được xây dựng ở những vị trí cao tầm
quan sát lớn để quan sát, canh gác cho thành.
Hào: là hệ thống công sự được đào để bảo vệ công trình phòng
thủ và hổ trợ tác chiến khi có chiến tranh.
1.2. Lịch sử hình thành thành lũy ở Việt Nam
Thành lũy ra đời ở nước ta tương đối sớm từ thời các vua Hùng,
các công trình phòng thủ mang tính chất công sự chiến đấu đã được hình
thành dưới những hình thức sơ khai nhất. Trong giai đoạn đầu của xã
hội Việt Nam do sự thiếu ổn định về mặt kinh tế, chính trị nên trong xã
hội luôn có các cuộc đấu tranh giữ các bộ lạc với nhau, sự tranh chấp địa
bàn cư trú này dần dần trở thành những xung đột quân sự lớn. Các bộ
lạc nhỏ yếu thông thường phải dựa vào những công sự sơ khai được
dựng lên như những chướng ngại vật để chặn bước tiến của thù để bảo
vệ sự tồn tại của bộ lạc và cộng đồng của mình. Sự đe dọa lớn hơn bắt
đầu đến từ bên ngoài với sự xâm lược của các đạo quân phương Bắc.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 2
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Dần dần chính những tác dụng có lợi của các dạng công sự sơ khai này
khiến người ta lưu tâm hơn và bắt đầu cho xây dựng những công trình
kiên cố hơn, để phục vụ công tác quốc phòng của bộ lạc và đất nước.
Các công trình thành lũy dần được ra đời trên cơ sở hoàn thiện kinh
nghiệm từ nhiều thế hệ và có sự giao lưu với các quốc gia lân bang.
Ngoài những thành sơ khai được xây dựng đơn giản đến nay khảo
cổ học đã phát hiện trong giai đoạn này nhiều thành còn dấu vết đến
ngày nay: Thành cổ Mê Linh - nơi Hai Bà Trưng đóng đô, Thành Cổ Loa
Đông Anh – Hà Nôi, Thành cổ Phong Châu, theo An Nam chí chép : Ở
phía tây bắc phủ Giao Chỉ, tức đất Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ đời
Hán. Luỹ cổ của Trưng Vương: ở xã Cư An. Nay là thôn Cư An xã Tam
Đồng huyện Mê Linh. Thành Luy Lâu, thành Hoa Lư – Ninh Bình…đó là
những thành lũy đầu tiên mang nặng kiến trúc và tư duy quân sự của
người Việt.
1.3. Vài nét về tiêu chí chọn địa điểm xây dựng thành lũy Việt Nam
Do đặc điểm dân cư nước ta giai đoạn đâu thưa thớt và phải
thường xuyên chống đỡ những cuộc “Chinh man” của chủ nghĩa bành
trướng Phương Bắc. Vì vậy từ lâu cha ông ta đã ý thức sâu sắc phương
châm chiến tranh du kích và quan điểm chiến lược lấy ít địch nhiều kết
hợp khéo léo yếu tố cốt lõi của binh gia “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
Tuy nhiên để đương đầu với những đạo quân “Chinh man” với số lượng
áp đảo về mọi mặt thì việc tạo ra cho mình những cứ địa phòng thủ là
điều không thể xem nhẹ.
Trên cơ sở đó, cha ông ta đã biết dựa vào những đạo binh lực vô
hình từ địa thế tự nhiên của hình sông dáng núi, của cái mà binh pháp
thường gọi là “Nơi dễ phòng thủ, khó tấn công”. Tiêu chí đó một khi
được kết hợp và hòa quyện với chủ nghĩa anh hùng dân tộc được ăn sâu
trong tiềm thức của người lính Việt thì nó thành cảnh giới tối cao của
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 3
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
thuật dùng binh. Một người địch muôn kẻ để chế ngự và áp đảo quân
thù. Đó là trí tuệ của nghệ thuật quân sự sơ khai mà tinh túy là cái giản
đơn mà thiết thực trong quân sự của cha ông ta. Diễn giải quan niệm
này ta thấy được cái lợi nhiều mặt ngoài những gì đã nêu ở trên, cách lựa
chọn này cũng là sự chọn lựa tối ưu về sự tiết kiệm và biết quý trọng
sức dân của những vị minh quân thiên tử của nước Nam. Rõ ràng với số
dân ít ỏi kinh tế nghèo yếu lại kinh niên sống trong đao binh của những
cuộc rữa hận mà các thế lực chinh phạt phương Bắc reo rắc mà cho xây
đắp những thành lũy nguy nga tráng lệ là điều không tưởng. Phỏng điều
đó trở thành hiện thực thì vắt kiệt sức dân khi kẻ thù tới đánh họ cũng
chẳng còn hơi sức đâu mà chống cự. Bất quá còn tạo ra sự chia rẽ mất
lòng dân một điều tử địa trong binh gia.
Vì vậy yếu tố kết hợp điều kiện tự nhiên thuận lợi cho xây dựng
công sự phòng thủ là tiêu chí tất yếu để cất thành, đắp lũy.
Một tiêu chí khác cũng không kém phần quan trọng ngoài yếu tố
địa hình để các chiến lược gia xưa lựa chọn đó là yếu tố “Nhân hòa” xây
dựng công sự thành lũy phải ở khu vực gần dân, phải có dân. Từ xưa,
cha ông ta đã biết mối quan hệ khăng khít quân với dân như cá với nước
nên xây dựng quân sự không thể nơi không có dân cư. Dân là tai, mắt là
nguồn nuôi sống quân đội và là cội nguồn sức mạnh Việt Nam. Xây
dựng thành phải ở nơi có sự bổ sung thường xuyên về lương thực và
quân số. Tức là sự kết hợp lôgic hai yếu tố quân đội và hậu cần tại chổ.
Tạo nên sự vững mạnh cho quân đội từ bên trong. Yếu tô sống còn cho
sức mạnh quân sự của bất kỳ đạo quân nào. Huống hồ, nghệ thuật quân
sự của cha ông ta là chiên tranh nhân dân của toàn dân đánh giặc.
Nếu chỉ nhìn vấn đề từ hai yếu tố trên thì chưa đủ, để chọn khảnh
đất này làm nơi xây thành đắp lũy mảnh đất kia cất đặt bố phòng. Nó
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 4
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
còn phải đảm bảo tiêu chí “tính thiêng” của thắng địa, là nơi có nguyên
liệu dồi dào, giao thông thuận lợi.
Để đạt tới sức mạnh tối đa con người ta thường hay gữi gắm
niềm tin của mình vào một thế lực siêu nhiên nào đó. Trong quân sự điều
này cũng không ngoại lệ. Thành Cổ Loa người ta thêu dệt nên “tính
thiêng” này bằng việc giúp sức của thần Kim Quy và chiếc móng Rùa
Thần, các thành lũy khác cũng có thế lực thần linh bảo trợ để nó trở
thành thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm.
Các yếu tố nguyên liệu dồi dào để thuận lợi cho xây dựng và giữ
thành. Giao thông thuận lợi là để tác chiến thuật tiện đặc biệt với quân
đội ta tư thế thủy quân và bộ binh thì yếu tố này càng trở nên quan trọng.
Vận chuyển dễ dàng chi viện thuận lợi khi có chiến tranh và thuận lợi
thông thương khi ở thời bình cũng là tiêu chí lựa chọn mỗi khi quyết định
địa thế xây dựng thành lũy.
Tóm lại, tiêu chí chọn đất xây dựng thành lũy Việt Nam có thể gói
gọn trong bốn chữ đó là: “Địa lợi, nhân hòa”.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 5
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
CHƯƠNG HAI
MỘT SỐ THÀNH TIÊU BIỂU DO KHẢO CỔ HỌC
PHÁT HIỆN
2.1. Thành Cổ Loa
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An
Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà
nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà
Nội.
2.1.1. Vị trí địa lý và những tiêu chí chọn vị trí
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu
thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường
bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa.
Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông
Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông
Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình.
Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng
thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng
cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.
Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng
Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển
cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông
Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 6
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng
bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng,
đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh
dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt
chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại
vùng đồng bằng.
2.1.2. Vật liệu và kỷ thuật xây dựng
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có
gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng
trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo
phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy
xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào
thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m.
Chân lũy rộng 20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. Khối lượng đất đào đắp
ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất
yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ
nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ
học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được
chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn 60 cm.
Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra,
thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh
hùng mạnh
2.1.3. Cấu trúc thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ
nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất
trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 7
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo
các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm
đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai
bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không
băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại
xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo
vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là
đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng
được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng
trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm
vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành
ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá
tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá
là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân
thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã
tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói,
đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở
nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang
trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng
căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3
vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô
Quyền. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện
tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất
đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài
lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra
thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 8
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp
ước tính 2,2 triệu mét khối.
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất,
mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và
có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng,
dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có
năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa
đông ăn thông với sông Hoàng.
Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000 m,
cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung
bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với
nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành
không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu
quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về
phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành
từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở
Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có
hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước
chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm
Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền
thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra
sông Hoàng
2.1.4. Chức năng.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 9
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác
làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc
tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại,
được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn. Các ụ, lũy
này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ,
phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của
người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các
bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn
cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng
thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh, khi tác chiến.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh
lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy.
Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải
được bảo vệ chặt chẽ, xã hội đã có giai cấp rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
2. 2. Thành Hoa Lư
Thành Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Ccof Việt dười hai
triều đại Đinh và Tiền lê. Sử cũ có ghi chép về việc xây dựng, hưng,
phế của tòa thành này. Song, những ghi chép đó đề sơ sài và ít ỏi.
Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất còn lại đến nay, ghi vắn tắt
như sau: “Năm đầu hiệu Khai Bảo đời Triệu Tống (968), Đinh Bộ
Lĩnh xưng làm hoàng đế ở đọng Hoa Lư, xây cung điện”.
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép tường tận hơn: “
khi ấy 12 sứ quân đều tự làm hùng trưởng, cắt giữ đất đai… Vua
(Đinh Bộ Lĩnh) đánh dẹp được tất cả, mới tự xưng đế, chọn được
chổ đất bằng phẳng ở Đàm Thôn, muốn dựng làm kinh đô, nhưng vì
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 10
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
thế đất chật hẹp , lại không có lợi về sự đặt hiểm, nên lại đóng đô ở
Hoa Lư”.
Sử chép rằng: "Mậu Thìn năm thứ 1 (Tống, Khai Bảo năm thứ
nhất), Vua (Đinh Bộ Lĩnh) lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời
kinh về động Hoa Lư, xây dựng đô mới, đắp thành đào hào, làm cung
điện, đặt triều nghi". Đây là chép về vua Đinh Tiên Hoàng sau khi dẹp
xong các sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua và xây dựng kinh
đô.
Sử lại chép "Giáp thân năm thứ 5 (984)... Dựng nhiều cung điện,
làm điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, có cột điện dát vàng bạc,
làm nơi coi chầu; bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Từ Hoa,
bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân,
rồi lại dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường
Xuân lại dựng điện Long Lộc lợp bằng ngói bạc". Đây là chép về vua Lê
Đại Hành, sau khi lên ngôi đã tiếp tục xây dựng kinh đô Hoa Lư thành
một thủ đô tráng lệ.
Sử chép tiếp: "Canh tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 (1010)... Mùa thu
tháng 7, Vua dời kinh đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của
kinh phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền
ngự, vì thế đổi là thành Thăng Long. Đồi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên
Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên...".
Theo sử sách thì Hoa Lư đã đóng vai trò thủ đô 42 năm. Trong 42
năm đó, trải ba triều: Đinh - Lê - Lý, Hoa Lư đã được tu bổ xây dựng khá
nhiều. Ít nhất nơi đây đã là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế và quân
sự của hai triều Đinh và Tiền Lê.
2.2.1. Vị trí địa lý
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 11
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Thành Hoa Lư thuộc đất xã Trường Yên, huyện Gia Khánh, tỉnh
Ninh Bình cũ (hay là Hà Nam Ninh); cách Hà Nội khoảng 10 km về phía
tây bắc.
Hệ thống núi đá vôi của huyện Gia Khánh phát triển thành những
dải núi hiểm trở bao bọc xung quanh một vùng đất bằng, rộng lớn, ngay
bên bờ phía đông nam sông Hoàng Long. Vùng đất này đã được chọn làm
khu vực kinh thành Hoa Lư.
Thế đất Hoa Lư tuyệt đẹp. Núi cao bao quanh gần như kín ba mặt
tây, nam và đông, tạo nên những bức tường cao vô cùng kiên cố. Phía
bắc và phía đông bắc ít núi, lại có con sông Hoàng Long án ngữ như một
hào ngoài. Sông Hoàng Long là con sông lớn bắt nguồn từ vùng rừng núi
Hòa Bình, Nho Quan chảy ra sông Đáy, lại là con đường giao thông thuận
tiện từ kinh thành ra bắc vào nam. Từ Hoa Lư còn có nhiều con đường
len lỏi trong vùng, qua những ngách núi cheo leo để đi sâu vào vùng núi
hoặc vào phía nam.
Chọn Hoa Lư làm kinh thành, người xưa chỉ cần xây nối một số
đoạn ngắn các khoảng trống giữa hai quả núi là có một công sự khép kín
vô cùng kiên cố mà không phải tốn nhiều công sức.
Tiếp sau Cổ Loa, Hoa Lư là một tòa nhà điển hình cho phương
pháp xây dựng lợi dụng địa thế tự nhiên. Cũng bởi lẽ đó mà thành Hoa
Lư có dáng hình độc đáo, có đầy đủ tính chất kiên cố, hiểm trở của một
công trình quân sự, lại thêm tính kỳ vĩ, hữu tình của một thắng cảnh.
2.2.2. Vật liệu
Vì các đoạn thành nằm trong vùng ngập nước nên những người
xây thành phải xử lý móng để chống sạt lở. Móng được làm đơn giản cứ
một lớp cành lá cây dày lại đến một lớp đất. Còn có những cột đóng sâu
xuống giữu cho móng không trôi. Cọc có cọc đươn và cọc kép; cọc kếp
gồm hai cọc nối nhau bằng đà ngang có lỗ mộng. Trên đà ngang xếp
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 12
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
nhiều cây gỗ dài. Đây là các xử lý truyền thống trong việc chống lún ở
những vùng lầy lội. Cách này rõ ràng có hiệu quả tốt, tường thành xây
đắp bên trên đã tồn tại vững vàng đến ngày nay.
Mặt trên thân tường thành là một lõi gạch xây cao như bức tường,
lõi gạch dày 0,45 m, cao 1,75m. Dưới chân tường thành gạch có kê bằng
đá tảng và những cọc gỗ lớn. Đây là hoạt động xây đắp gia cố thêm cho
những đoạn thành nhân tạo kém hiểm trở so với những dãy núi đá thiên
nhiên.
Đất đắp thành là loại đất sét thuần nhất, khá mịn, có màu xám, có
vân nâu hoặc vàng được đầm khá chắc. Gạch xây tường thành là viên
gạch chữ nhật, có kích thước 30*16*4 cm. Trên gạch được in chữ “Đại
Việt quốc quân thành chuyên” và “Giang Tây chuyên”.
2.2.3. Kiến Trúc
Kinh đô Hoa Lư được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, các triều vua đã
dựa theo địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường thành nối các núi đá,
dựng nên thành Hoa Lư thuộc xã Trường Yên với diện tích hơn 300 ha.
Phía Nam thành Hoa Lư là thành Tràng An (còn được gọi là thành Nam)
là khu vực phòng thủ hậu cứ của kinh đô. Thành Hoa Lư có rất nhiều
cổng bộ để đi vào, bên cạnh đó còn có cổng thủy do sông Sào Khê chảy
xuyên qua thành. Thành Hoa Lư có hai vòng sát nhau: thành ngoài và
thành trong.
Thành ngoài rộng khoảng 140 ha, nằm ở phía đông thành trong, có
5 đoạn tường thành nối các dãy núi tạo nên vòng thành khép kín.
Đoạn 1 nối núi Đầm với núi Thanh Lâu, được gọi là "tường
Đông", dài 320m;
Đoạn 2 từ núi Thanh Lâu đến núi Cột Cờ, dài 230m;
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 13
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Đoạn 3 từ núi Cột Cờ sang núi Chẽ, dài 300m;
Đoạn 4 từ núi Chẽ đến núi Chợ, dài 300m;
Đoạn 5 từ núi Mã Yên sang một núi hang Quàn, dài 200m.
Khu thành Ngoài là nơi làm việc hàng ngày của triều đình Hoa Lư. Ðây là
cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê nằm ở trung tâm.
Thành trong có diện tích tương đương và nằm phía tây thành ngoài,
thuộc địa phận thôn Chi Phong, cũng có 5 đoạn tường thành nối liền các
dãy núi
Đoạn 1 từ núi Hàm Sá đến núi Cánh Hàn, dài 100m;
Đoạn 2 từ Cánh Hàn đến núi Hang Tó, dài 500m;
Đoạn 3 từ núi Quèn Dót sang núi Mồng Mang, được gọi là "tường
Bồ", dài 150m;
Đoạn 4 từ núi Mồng Mang đến núi Cổ Giải, được gọi là "tường
Bìm", dài 65m;
Đoạn 5 đắp ngang thành trong.
Khu thành trong là nơi ở của gia đình vua cùng một số người
hoàng tộc và quan lại cao cấp của triều đình. Ngoài vua và số quan lại
được quyền cư trú trên, ở thành ngoài và thành trong còn có các doanh
trại của 3.000 quân cấm vệ bảo vệ vua và triều đình; dân chúng chỉ
được cơ trú ngoài thành.
Việc qua lại giữa hai tòa thành rất thuận tiện. Cả hai thành đều lợi
dụng được ưu thế sông Sào Khê chảy dọc thành, vừa là hào nước tự
nhiên, vừa là đường thủy, phục vụ việc di chuyển ra vào thành. Một
tổng thể kinh thành gồm hai tòa thành riêng biệt, rất thuận tiện cho việc
bố trí từng khu triều đình, quan lại hay quân sĩ. Song việc qua lại giữa
hai thành không vì vậy mà trở ngại. Thiên nhiên đã khéo bố trí một con
đường kín đáo mà thuận tiện, đó là Quèn Vông, quãng tiếp giáp giữa núi
Hang Sung và núi Quèn Dót. Ở mỗi tòa thành còn có một đoạn tường
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 14
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
thành ngắn có thể chia làm hai phần, tăng thêm mức độ quanh co hiểm
hóc cho công trình. Triều Đinh thành lập sau hàng ngàn năm Bắc thuộc,
khi mà những mô hình thành lũy kiểu Hán ngang bằng sổ ngay, phương
hướng tề chỉnh, quy cách xây dựng trở thành công thức, đã mọc lên
không ít ở nhiều nơi. Nhưng thành Hoa Lư độc đáo được xây dựng lại
không theo một khuôn mẫu Trung Quốc của bất cứ thời nào. Là một căn
cứ quân sự, Hoa Lư đã đạt tới đỉnh cao về mức độ kiên cố, hiểm trở của
một công trình phòng thủ. Có thể coi Hoa Lư là một công trình kiến trúc
quân sự hiếm có trong lịch sử Việt Nam và cả trong lịch sử các nước
khác đương thời. Hoa Lư là một tòa nhà điển hình cho phương pháp xây
dựng lợi dụng địa thế tự nhiên. Cũng bởi lẽ đó mà thành Hoa Lư có dáng
hình độc đáo, có đầy đủ tính chất kiên cố, hiểm trở của một công trình
quân sự, lại thêm tính kỳ vĩ, hữu tình của một thắng cảnh.
2.2.4. Chức năng
Vua Đinh Tiên Hoàng đã biết khai thác triệt để thiên nhiện phục
vụ con người. Có thể nói, kinh đô Hoa Lư là một quân thành vững chắc
do thiên nhiên và con người làm nên. Phia bắc thành nằm bên sông Hoàng
Long rất thuận tiện cho giao thong đường thủy. Núi cao bao quanh tạo
nên bức tường thành kiên cố. Từ Hoa Lư còn có nhiều con đường len lõi
trong vùng, qua những vách núi cheo leo để đi sâu vào vào vùng núi hoặc
phía nam. Thành Hoa Lư có dáng hình độc đáo, có đầy đủ tính chất kiên
cố, hiểm trở của một công trình quân sự.
Một tổng thể kinh thành gồm hai tòa thành riêng biệt, rất thuận lợi
cho việc bố trí từng khu triều đình, quan lại hay quân sĩ. Việc qua lại
giữa hai thành không vì vậy mà trở ngại, thiên nhiên đã khéo bố trí cho
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 15
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
một con đường kín đáo mà thuận tiện đó là Quèn Vông, quãng tiếp giáp
giữa núi Hang Sung và núi Quèn Dót.
Hoa Lư ở thế đất hiểm, khiến kẻ thù khó tấn công và không thể
bao vây. Khi kinh thành bị tấn công thì chỉ có thể tấn công mặt trước,
những người giữ thành có thể rút toàn bộ lực lượng vào sâu trong Nho
Quan hay Tam Điệp. Dọc con đường hẹp len lõi giữa các khe núi, có thể
đặt phục binh tiêu diệt. Hoa Lư rất thuận lợi cho một công trình mang
tinh chất phòng thủ.
Kinh thành nằm giữa những quả núi lớn bao bọc, mang nặng tính chất
quân sự, vị trí kín đáo thuận lợi cho việc phòng thủ, tiến công, lại xa biên
thùy, khó khăn trong việc giặc phương Bắc tìm hiểu, mở các đợt tấn
công chớp nhoáng.
Là một kinh đô, Hoa Lư giữ vị trí trung tâm kinh tế – văn hóa –
chính trị trong suốt 42 năm tồn tại của mình, các đời vua sau này không
còn ở đây nữa song vẫn cho xây dựng them ở đây nhiều công trình kiến
trúc như đình, chùa, lăng tẩm. Với bề dày thời gian hơn 1000 năm, cố đô
Hoa Lư là nơi lưu trử các di tích lịch sử qua các thời đại.
2.2.5. Tiểu kết
Hoa Lư là một thành trì quân sự, một trung tâm văn hóa lớn. Kinh
đô Hoa Lư là một “quân thành” phòng ngự vững chắc, vừa tiết kiệm sức
người, sức của lại vừa đảm bảo đối phó tối ưu với các thế lực thù địch.
Hoa Lư gắn với tên tuổi 3 vị vua khai sáng 3 triều đại với những với
những chuyển biến trọng đại của dân tộc Việt Nam: thỗng nhất đất
nước, chống giặc ngoại xâm và phát tích thủ đô Hà Nội.
2.3. Thành Thăng Long (Đến thời lý)
Mùa thu năm 1010, sau khi công bố Thiên đô chiếu tại tại kinh đô
Hoa Lư và dời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ cùng các quần thần đã gấp
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 16
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
rút xây dựng những công trình cơ bản của kinh thành Thăng Long. Đến
đầu năm 1011 thì hoàn thành.
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh
thành Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ thời kỳ từ tiền Thăng Long (An
Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh
dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công
trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn
lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích
Việt Nam.
2.3.1. Vị trí địa lý
Thành Thăng Long nằm ở đồng băng Bắc Bộ nước ta có địa thế
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, là nơi cư trú của nhân dân: “ cư dân
khỏi chịu khổ ngập lụt”, là nơi thích hợp cho việc phát triển nông
nghiệp, thương nghiệp. Nơi này đúng là kinh đô bậc nhất của nước ta.
Trong Chiếu dời đô viết “thật là chón hội tụ trọng yếu của bốn phương
đất nước cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”
Trong Chiếu dời đô năm 1010 vua Lý Thái Tổ cũng viết: “…Đại
La thành trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế,
chánh nam bắc, đông, tây chi vị, tiện giang sơn hướng bội chi nghi ”
(thành Đại La ở vào chổ trung tâm trời đất, có thế rồng chầu hổ phục,
đúng vị trí giữa bốn phương nam bắc đông tây, tiện hình thế núi sông sau
trước) nên đã quyết ddingj làm chốn “kinh sư cho muôn đời”. Như vậy
kinh đô Thăng Long là nơi có thể phát triển về kinh tế, lại là thành có địa
thế thuận lợi cho phát triển quân sự cả quân bộ và thủy quân. Ngày nay
là thủ đô Hà Nội có một vị thế rất lớn về văn hóa, xã hội. Là trung tâm
chính trị của cả nước.
Hà nội quá khứ vàng son nghìn thủa và vị thế hiện tại thủ đô nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tọa đọ vị trí thuận lợi về nhiều
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 17
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
mặt, nằm trên trục đồng bằn hình tam giác do sông Hồng và các phụ lưu
của nó tạo nên. Thiên nhiên Thăng Long xưa và Hà Nội nay là nơi hội tụ,
đầu mối giao thông phong tỏa xuống biển, lên ngàn…
Chính vì vậy từ xa xưa Thăng Long rất phát triển cả về kinh tế
lẫn chính trị, tạo ra nền tảng xây dựng một thủ đô ngàn năm văn hiến
của nhân dân Việt Nam.
2.3.2. Kỹ thuật bố trí kiến trúc (thời Lý)
Khi mới được xây dựn, Kinh thành Thăng Long được xây dựng
theo mô hình Tam trùng thành quách gồm: Vòng ngoài cùng được gọi là
La thành hay kinh thành, vòng thứ hai là Hoàng thành. Giữa hai lớp thành
này là nơi sinh sống của cư dân, lớp còn lại là Tử cấm thành hay Long
phượng thành là nơi ở của nhà vua.
Mùa thu 1010 một cụn kiến trúc trung tâm gồm tám điện, ba cung
được xây dựng: “phía trước dựng điện Càn nguyên làm chổ voi chầu,
bên tả làm diện thập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Vũ, lại mở cửa Phi
Long thông với cung Nghênh Xuân, của Đan Phượng thông với cửa Uy
Viễn, hướng chính nam là điện Cao Minh, đều gọi là thềm rồng; bên
trong thềm rồng có hai mái cong, hàng hiên bao quanh bốn mặt. sau điện
Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thủy làm nơi nghỉ ngơi của
hoàng tộc, bên tả là điện Quan Nhật, bên hữu là điện Nguyệt Minh;
dằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chổ cho cung nữ”.
Khu vực lâu đài trung điện còn nhiều lần đực sử chữa, xây thêm.
Khu vực điện của vua và triều đình gọi là Đại nôi. Bao quanh khu
vực này có một vòng thành bảo vệ nghiêm ngặt gọi là cấm thành, phía
ngoài có vòng thành thứ hai gọi là Hoàng thành hay thành Thăng Long.
Thành đắp bằng đất, phía ngoài đào hòa mở 4 cửa: Tường Phủ ở phía
Đông, Quảng Phúc ở phía Tây, Đại Hưng ở phía Nam, Diệu Đức ở phía
Bắc.
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 18
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ Tây
Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng mở gần Cửa nam hiện nay. Cửa
Dục Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đình Phùng
(Hà Nội) ngày nay.
Năm 1029, Lý Thái Tông xây dựng lại toàn bộ khu cấm thành sau
khi nơi đâu bị tàn phá bởi vụ Loạn tam vương. Trên nền cũ điện Càn
Nguyên, Lý Thái Tông cho dựng điện Thiên An là sân Rồng có đặt một
quả chuông lớn. Hai bên tả hữu sân rồng có đặt gác chuông. Phía Đông,
tây sân Rồng là điện Văn minh và điện Quảng Vũ, phía trước sân rồng là
điện Phụng Tiên, trên điện có lầu chính Dương là nơi báo canh báo khắc.
Sau điện Thiên An là điện Thiên Kháng hình bát giác. Sau điện Thiên
Khánh là điện Trường Xuân. Trên điện trường Xuân có gác Đồ Long. Từ
điện Thiên Khánh nối với điện Thiên An ở phía sau đều có bắc cầu gọi
là cầu Phượng hoàng.
Năm 1203, vua Lý Cao Tông bắt đầu một đợt xây dựng mới. Cung
điện mới được xây dựng ở phía tây tẩm điện. Bên trái dựng điện Dương
Minh, bên phải dựng điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm
gọi là Lệ giao. Ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt
Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đẵng sau xây điện thắng Thọ. Bên trái
xây gác Nhật kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh dựng hành
lang thềm gọi là Kim Tinh. Bên trái gác Nguyệt Bảo là tòa Lương
Thạch, phía tây xây gác Dục Đường (nhà tắm). Phia sau xây gác Phú
Quốc, thềm gọi là Phượng Tiêu. Phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao
Dưỡng Ngư, trên ao xây đình Ngoạn Y. Ba mặt đình trồng hoa thơm cỏ
lạ nước thông với sông.
Ngoài ra, các cung điện khác cũng được xây dựng liên tục, không
đời nào không có, không mấy năm không có. Mỗi cung điện thường đều
có tường bao xung quanh và làm cửa thioong với cung điện khác. Ngoài
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 19
- Bài Tiểu Luận Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam
Đề tài: Một số thành cổ ở Việt Nam (do khảo cổ học phát hiện)”
cung điện, các vị vua nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình văn hóa,
tín ngưỡng khác để phục vụ cho vua và hoàng tộc như: đền Quán Thánh,
chùa Châu Giáo (nơi vua Lý Huệ Tông đã tu hành), đài chúng Tiên dựng
năm 1161 tầng trên lợp ngoái bạc, hồ ao làm cảnh cũng được lập khá
nhiều trong Hoàng Thành. Năm 1049, đào hồ Kim Minh Vạn Tuế, đắp
núi cao ba ngọn trên mặt hồ và xây cầu Vũ Phượng đi vào, 10 năm sau
lại xây thêm điện Hồ Thiên bác giác ở đấy. Năm 1051 đào hồ Thụy
Thanh, hồ Ứng Minh. Năm 1098, đào hồ Phượng Liên và xây tại đây
điện Sùng Yên, bên trái lập điện Huy Dương, đình Lai Phượng bên phải
dựng điện Ánh Thiềm, đình Át Vân, phía trước xây lầu Trường Minh,
phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa.
Nhiều vườn ngự cũng được xây dựng nên trong Hoàng thành. Mùa
thu 1048, mở luôn 3 vườn ngự: Quỳnh Lâm, Thắng Cảnh, Xuân Quang.
Năm 1065, mở thêm vườn Thượng Lâm. Giữa thế kỷ XIV, lại dựng thên
một vườn nữa nối liền với hậu cung. Theo sử củ còn ghi, giữa vườn có
đào một cái hồ lớn: “ Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông,
trúc và nhiều thứ hòa kỳ diệu thảo khác, thêm vào đấy là chim quý, thú
lạ. Bốn mặt khai cho sông nước thông vào, gọi hồ ấy là Lạc Thanh Trì.
Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng một tòa điện gọi là điện Lạc Thanh.
Lại đào các hồ nhỏ khác, bắt người ở Hải Đông chở nước mặn chứa vào
hồ, để nuôi các loại hải sản như đồi mồi, cá biển và các loại ba ba. Rồi
bắt người Hóa Châu bắt cá sấu thả vào đấy. lại có hồ Thanh Ngư để
nuôi cá Thanh Phụ (cá diếc đuôi đỏ, vảy biếc)… Lại làm dãy hành lang
ở tây điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc, dựng dãy Trường Lang từ gác
Nguyên Huyền đến cửa Đại Triều ở phía tây.”
Trong những biến loạn cuối thời Lý, Hoàng Thành bị tàn phá nặng nề.
2.3.3. Ý Nghĩa của thành Thăng Long
SVTH: Phan Minh Quốc – MSSV: 0711676 – Lớp LSK31 Trang 20
nguon tai.lieu . vn